Lam Sơn Bình Thạnh

Lam Sơn Bình Thạnh

Chuỗi minishop Mr.Paint (thuộc hệ thống siêu thị sơn Paintmart) là đại lý sơn Dulux tại khu vực thuộc thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Chúng tôi phát triển dịch vụ bán lẻ sơn Dulux và các sản phẩm liên quan cho khách hàng tại các tỉnh miền Nam, miền trung và Tây Nguyên.

Chuỗi minishop Mr.Paint (thuộc hệ thống siêu thị sơn Paintmart) là đại lý sơn Dulux tại khu vực thuộc thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Chúng tôi phát triển dịch vụ bán lẻ sơn Dulux và các sản phẩm liên quan cho khách hàng tại các tỉnh miền Nam, miền trung và Tây Nguyên.

Trải nghiệm mua sơn Dulux tại chuỗi minishop Mr.Paint

Mr.Paint áp dụng hệ thống bán lẻ sơn Dulux đồng giá cho khách hàng tại tất cả các khu vực. Chúng tôi đã và đang nhận được sự tin tưởng nhờ vào những sản phẩm chính hãng và chất lượng tư vấn, hỗ trợ tốt nhất.

Chuỗi minishop Mr.Paint là một chuỗi cửa hàng bán lẻ sơn, bột trét và các dụng cụ liên quan được hình thành và phát triển dựa trên sự trải nghiệm của người dùng. Tại Mr.Paint khách hàng được trực tiếp “mắt thấy, tai nghe, tay sờ” tất cả các sản phẩm sơn Jotun với đầy đủ mọi dung tích, bao bì, màu sắc…

Ngoài ra, với đội ngũ tư vấn nhiều năm kinh nghiệm, các nhân viên tại hệ thống luôn tư vấn và tìm ra những giải pháp phù hợp nhất với mức chi phí thấp nhất dành cho khách hàng. Chúng tôi không chỉ hỗ trợ khách hàng trải nghiệm hệ thống phân phối sơn chính hãng mà còn đảm bảo mang lại những công trình xây dựng hoặc cải tạo nhà cửa đúng ý khách hàng nhất.

Là đại lý cấp 1 sơn Dulux, Mr.Paint luôn đảm bảo về nguồn gốc xuất xứ và những vấn đề liên quan đến chất lượng của sơn Dulux. Mỗi sản phẩm được phân phối tới tay người tiêu dùng đều được sản xuất và giám sát từ nhà máy Dulux tại Việt Nam.

Các nhân viên tư vấn có thể hỗ trợ khách hàng kiểm tra sản phẩm ngay tại cửa hàng, hoặc cung cấp giấy tờ chứng nhận xuất xứ từ nhà máy Dulux nếu quý khách có nhu cầu.

Sơn chính hãng từ nhà máy Dulux

Dulux phân phối sơn ra thị trường nhờ vào một hệ thống rất lớn các nhà bán lẻ. Để mua sơn Dulux chính hãng trực tiếp từ nhà máy, khách hàng có thể liên hệ tại các đại lý ủy quyền cấp 1 sơn Dulux.

Dù là khách hàng tại quận Bình Thạnh hay bất kỳ đâu, Mr.Paint luôn đảm bảo các sản phẩm sơn Dulux đến tay khách hàng đều được lấy trực tiếp từ nhà máy. Cùng với đó, vấn đề nguồn gốc xuất xứ và các giấy tờ liên quan đến chất lượng sơn Dulux, quý khách hàng được hỗ trợ hoàn toàn miễn phí.

Đặc biệt, nếu có một dự án lớn hoặc đặc biệt quan tâm đến việc mua sơn Dulux từ nhà máy, quý khách có thể liên hệ đến Hotline hoặc tổng đài sơn Dulux của Mr.Paint: 1900 234 535 để các nhân viên tư vấn hỗ trợ chi tiết nhất.

Là chuỗi hệ thống minishop – cửa hàng bán lẻ sơn tại Việt Nam, Mr.Paint luôn áp dụng chính sách và giá bán tốt nhất cho người mua hàng. Với tư tưởng giúp khách hàng trải nghiệm những sản phẩm sơn nước tốt nhất với giá cả phải chăng nhất, chúng tôi áp dụng chính sách bán lẻ sơn Dulux với mức khuyến mãi tương tự như khách hàng mua sỉ.

Tại Mr.Paint dù khách hàng chỉ mua 1L sơn, giá bán vẫn được áp dụng tương tự như khách mua sơn cho cả một công trình. Sự công bằng và tận tụy giúp chúng tôi nhận được niềm tin vô hạn từ phía khách hàng.

Khách hàng có thể tham khảo giá bán lẻ sơn Dulux trực tiếp tại cửa hàng hoặc dựa trên bảng giá sơn Dulux được Mr.Paint cập nhật hàng tháng, hàng quý thông qua website. Chúng tôi áp dụng chính sách đồng giá cho toàn bộ hệ thống và mọi hình thức mua hàng, do đó quý khách hàng trên tàn quốc hoàn toàn có thể yên tâm về mức giá bán lẻ của chúng tôi.

Mức giá sơn Dulux tại mỗi thời điểm có thể khác nhau, điều này phụ thuộc phần lớn vào giá đề xuất của nhà sản xuất cũng như biến động của thị trường. Do đó, để đảm bảo tính chính xác, quý khách hàng nên liên hệ trực tiếp thông qua Holine hoặc đến showroom để nhân viên tư vấn cung cấp bảng giá bán lẻ chính xác nhất.

Đại lý sơn Dulux tại Bình Thạnh

Khách hàng mua sơn Dulux tại Bình Thạnh có thể đến Mr.Paint bằng cách đến showroom của chúng tôi tại quận Bình Thạnh hoặc thông qua các kênh bán hàng trực tuyến. Các nhân viên tư vấn và bán hàng của Mr.Paint luôn sẵn sàng tư vấn chọn màu sắc, sản phẩm và tính khối lượng chính xác nhất cho khách hàng.

Dịch vụ giao sơn hoàn toàn miễn phí của chúng tôi luôn đảm bảo giao sơn tới tận công trình, đúng thời gian và hoàn toàn miễn phí cho khách hàng trong khu vực Bình Thạnh.

Khách hàng mua sơn Dulux tại quận Bình Thạnh có thể liên hệ hotline hỗ trợ: 1900 234 535 để nhân viên tư vấn của Mr.Paint hỗ trợ nhanh nhất và thuận lợi nhất.

Dịch vụ pha màu trực tiếp bằng máy vi tính

Dulux áp dụng công nghệ pha màu sơn tự động bằng máy vi tính. Các đại lý cấp 1 sơn Dulux vừa là nhà phân phối và là các trung tâm pha màu. Các đại lý này phải đảm bảo rất nhiều yếu tố cũng như cam kết để có thể được sử dụng máy pha màu. Dulux có trách nhiệm cung cấp thiết bị, nguyên liệu và giám sát quy trình pha màu của các đại lý nhằm đảm bảo sơn đưa vào sử dụng chính xác và chất lượng nhất.

Với khách hàng mua sơn Dulux tại các cửa hàng của Mr.Paint, quý khách sau khi chọn màu sơn phù hợp nhu cầu sẽ được tham quan quá trình thực hiện pha màu sơn Dulux trực tiếp ngay tại cửa hàng. Việc này đảm bảo tính minh bạch và đáp ứng được những thắc mắc của khách hàng trong quá trình mua sơn.

Khách mua sơn Dulux tại Mr.Paint hoàn toàn không phải lo về khâu vận chuyển. Dù là công trình ở thành phố Hồ Chí Minh hay các tỉnh lân cận, hệ thống vận chuyển của Mr.Paint luôn đảm bảo giao sơn đến đúng vị trí, đúng thời gian như thỏa thuận.

Quý khách hàng có thể liên hệ trực tiếp Hotline: 0934 152 927 - 0902 359 377 (24/7) hoặc thông qua tổng đài sơn Dulux của chúng tôi: 1900 234 535 để yêu cầu hỗ trợ hoặc giải đáp những thắc mắc.

Mr.Paint rất hân hạnh được phục vụ quý khách!

CHUỖI MINISHOP MR.PAINT (hệ thống Siêu Thị Sơn PAINTMART)

Chi nhánh 1: 439/13 Lê Văn Quới, P. Bình Trị Đông A, Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh

Chi nhánh 2: D10/8 quốc lộ 1A, ấp 4, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh

Chi nhánh 3: 130 Đường Nguyễn Ảnh Thủ, Tân Chánh Hiệp, Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh

Email: [email protected] Tổng đài: 1900 234 535

Hotline: 0934 152 927 - 0902 359 377 . Điện thoại: 02866 810 415

Địa chỉ: Số 51, đường Trương Công Giai, Phường Dịch Vọng, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, Việt Nam

ĐT: 024 62691602 - Fax: 024 62698623

Người đại diện: Ông Hoàng Minh Châu - Tổng Giám Đốc

Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Thành Phố Hà Nội Cấp lần đầu ngày 04/03/2004. Đăng ký thay đổi lần thứ 10, ngày 03/07/2019.

Thực phẩm này không phải là thuốc, không thay thế thuốc chữa bệnh. Tác dụng khác nhau tùy thuộc cơ địa mỗi người

Chào mừng các bạn đến với Trang thông tin điện tử Xã Thọ Lộc - Huyện Thọ Xuân - Tỉnh Thanh Hóa

Khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc thành lập trở lại nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê

Trong giai đoạn đầu (1418–1423), nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường hứng chịu các cuộc càn quét của quân Minh và quân Ai Lao, chịu tổn thất lớn. Các tướng Lam Sơn là Lê Lai và Lê Thạch tử trận. Quân Lam Sơn bấy giờ chỉ có thể thắng những trận nhỏ. Nghĩa quân bắt đầu giành thế thượng phong khi Lê Lợi nghe theo Nguyễn Chích, tiến quân ra đất Nghệ An vào năm 1424. Sau nhiều trận đánh lớn với quân Minh do các tướng Minh và cộng sự người Việt chỉ huy, quân Lam Sơn giải phóng hầu hết vùng đất từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa, siết chặt vòng vây các thành chưa đầu hàng. Ở giai đoạn cuối, sau khi tích lũy được lực lượng, quân Lam Sơn lần lượt chuyển đại quân ra Bắc, thực hiện chiến lược cơ động, buộc quân Minh phải co cụm để giữ các thành trì quan trọng. Đặc biệt với chiến thắng quyết định trong trận Tốt Động – Chúc Động, quân Lam Sơn giành được thế chủ động trên chiến trường và sự ủng hộ của dân chúng vốn khiếp sợ trước uy thế của quân Minh trước đó. Tiếp nối thắng lợi, cuối năm 1427, quân Lam Sơn triển khai chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang, đánh tan tác lực lượng viện binh quân Minh, buộc tướng chỉ huy quân Minh trên đất Việt cũ là Vương Thông phải xin giảng hòa và được phép rút quân về nước. Sau chiến thắng, Bình Định vương Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc.  Nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, mở ra cơ nghiệp nhà Lê trong gần 400 năm sau đó.

Khởi  Nghĩa  Lam Sơn được diễn ra trong hoàn cảnh sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đặt ách đô hộ lên nước Việt, đặt nước Việt trở thành quận Giao Chỉ. Người Việt lập tức nổi lên chống quân Minh, mà lớn nhất là của nhà Hậu Trần, đã có những thời điểm tưởng chừng có thể khôi phục lại giang sơn của người Việt. Tuy nhiên, do sự thiếu đoàn kết giữa các thủ lĩnh quân nổi dậy người Việt, quân Minh vừa mua chuộc gây chia rẽ, vừa khủng bố trấn áp rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây...), hòng đè bẹp mọi ý chí phản kháng của người Việt. Mặc dù vậy, dưới sự cai trị tàn bạo, khắc nghiệt của nhà Minh, người Việt rất oán hận, luôn ấp ủ chờ thời cơ nổi dậy.

Lê Lợi vốn là phụ đạo Lam Sơn (tên gọi thổ tù), nối đời làm hào trưởng Lam Sơn, trước từng theo vua Trùng Quang làm chức Kim ngô Tướng quân, sau Hoàng Phúc chiêu dụ đến cho làm Thổ quan Tuần kiểm, Lê Lợi không theo.  Ông ẩn thân ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình đọc sách kinh sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách Thao Lược; hậu đãi các tân khách; chiêu nạp kẻ trốn, kẻ làm phản; ngầm nuôi kẻ mưu trí; bỏ của, phát thóc để giúp cho kẻ côi cút, nghèo nàn; hậu lễ, nhún lời để thu nạp anh hùng hào kiệt; đều được lòng vui vẻ của họ. Những hào kiệt như Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quang Thanh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu và Lê Xa Lôi nối tiếp đến quy phục. Lê Lợi thấy người Minh tàn ngược, khẳng khái nói:

Trượng phu sinh ở đời phải nên cứu nạn lập công, sao lại chịu khổ làm tôi tớ người ta!

Lại thường lời lẽ nhún nhường, đem nhiều vàng, bạc, của báu, đút lót cho các tướng nhà Minh là Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong họ không hãm hại mình để chờ thời cơ. Ngụy quan người Việt Lương Nhữ Hốt bàn với tướng Minh, nói rằng:

Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu, chí nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây mưa, thì tất không phải là vật ở trong ao đâu! Nên sớm trừ đi, đừng để sau sinh vạ.

Nhà Minh tin lời Lương Nhữ Hốt, bức bách Lê Lợi gấp gáp, Lê Lợi bèn đại hội tướng sĩ, bàn việc khởi binh. Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Thân, năm 1418 Lê Lợi khởi binh ở Lam Sơn, xưng là Bình Định vương, cử cháu là Lê Thạch làm Tướng quốc, truyền hịch đi các nơi cùng chống quân Minh. Cuộc khởi nghĩa mở đầu được Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:

... Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Lý... tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn (trong đó 19 người đã từng tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416), xưng là Bình Định vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước. Địa danh Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Lam Sơn thực lục, buổi đầu khởi nghĩa Lam Sơn:

“Nguyên trước Nhà vua kinh doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng; cùng những quân-thân như cha, con; hai trăm thiết kỵ, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên-chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi.

Khi ấy, quân Minh đã thiết lập được sự cai trị trên đất Đại Việt, với 5 vạn quân, voi ngựa hàng trăm con. Trong khi đó quân Khởi nghĩa Lam Sơn hoạt động khó khăn ở vùng núi Thanh Hóa . Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh do các tướng như Lý Bân, Phương Chính chỉ huy đánh bại.

Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn 3 lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị quân Minh vây gắt ở núi Chí Linh (có sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, một nghĩa sĩ của Lê Lợi là Lê Lai theo gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị quân Minh giải về Đông Quan và bị giết.

Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều khó khăn, quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ăn.

Trước tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hòa.

Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424, Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng (Bất Căng, Thọ Xuân) do Lương Nhữ Hốt giữ, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Lân. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trần Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Cầm Bành phải đầu hàng.

Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ An, lại mang quân chủ lực cùng tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ.

Lý An, Phương Chính từ Đông Quan (Hà Nội ngày nay) vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An.

Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong thành.

Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hoá. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt.

Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành địch đều bị bao vây.

Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây Bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc, Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.[27][28].

Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan.

Viện quân từ Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy kéo sang, nhưng bị Phạm Văn Xảo phá tan. An Lão chạy về cố thủ ở thành Tam Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Quân Lam Sơn định đón đường ngăn chặn nhưng không được. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra bắc.

Để đối phó lại tình hình nguy cấp, năm 1426, nhà Minh cho huy động 20.000 quân từ nhiều tỉnh phía nam tiến vào tiếp viện. Các quan lại nhà Minh tại Việt Nam cũng được lệnh mộ thêm 30.000 thổ binh bản xứ hỗ trợ. Thêm vào đó, nhà Minh cho gửi thêm hỏa khí sang trợ chiến, và các tướng Minh tại Giao Chỉ cũng rút hết quân làm đồn điền (trồng lúa lấy lương - khoảng 8.000 thổ binh bản xứ) để đối phó với quân nổi dậy. Trần Trí, Phương Chính bị cách chức, bị đặt dưới quyền Vương Thông sai khiến để lấy công chuộc tội. Tại Vân Nam, Mộc Thạnh cũng được lệnh tuyển mộ 15 ngàn bộ binh và 3 ngàn cung thủ chuẩn bị sẵn sàng. Từ Quảng Tây, tướng Minh là Cố Hưng Tổ (Gu Xing-zu) được lệnh đưa 5.000 quân bản bộ sang tiếp ứng với Vương Thông.

Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện, hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ ra chặn đánh quân Lam Sơn. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.

Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động (các địa danh này ngày nay đều thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội)[ . Nhân biết Vương Thông định chia đường đánh úp Lê Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Sử chép ba đạo quân ra bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thành 4) chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 35 vạn, ông dự định sẽ cho 25 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân.[41][42]

Ngoài ra, theo tác giả Karl Hack, sau khi nhà Hậu Trần thất bại, nhà Minh cho rằng sự bình định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt. Đây có lẽ là lý do làm cho sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau này.

Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan.

Vương Thông thua chạy không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần (vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên Minh Thành Tổ đã lấy danh nghĩa muốn lập lại nhà Trần mà mang quân sang đánh nhà Hồ, nay Vương Thông muốn vin vào đó), ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua.

Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Theo sử sách, Trần Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội của vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số sử gia gần đây, việc Trần Cảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác định, có thể chữ "mạo xưng" mà sử sách ghi là do các sử gia nhà Lê chép vào để làm giảm uy tín của Cảo.

Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về nước xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa.

Sau khi cắt đứt giảng hòa, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc Bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được.

Đầu năm 1427, Lê Lợi chia quân tiến qua sông Nhị Hà, đóng dinh ở Bồ Đề[, sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân.

Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các thành khác ra hàng.

Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Đinh Lễ bị giặc giết hại, sau Nguyễn Xí lợi dụng một đêm mưa giông mà trốn thoát được.

Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Thành Sơn hầu Vương Thông, sai An Viễn hầu Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Chinh Nam tướng quân Thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nói cao lên, trên thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Thăng.

Theo Minh sử thì tới cuối tháng 1 năm 1427, nhà Minh điều động từ Bắc Kinh, Nam Kinh và khắp các tỉnh miền nam Trung Quốc khoảng 70.000 quân. Để cung ứng lương thảo, tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hễ nơi nào có dư lương thực đều phải tức tốc vận chuyển về để cung ứng cho đạo quân viễn chinh. Tới cuối tháng 3, nhà Minh lại điều thêm 2.200 vệ binh từ Vũ Xương và Thành Đô, 10.000 quân tinh nhuệ từ Nam Kinh và 33.000 quân từ các tỉnh miền nam Trung Quốc đặt dưới quyền Liễu Thăng và Mộc Thạnh.

Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan. Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hóa, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Nguyễn Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh.

Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Liễu Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 10 năm 1427), Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Tới tận ngày 25 tháng 12 năm 1427, vua Minh mới nhận được tin Liễu Thăng bị giết.

Các tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc, Thôi Tụ và hơn 3 vạn quân bị bắt. Do quyết tâm không quy hàng, Thôi Tụ bị giết. Hoàng Phúc bị bắt khi định chạy theo ngả Chi Lăng, y cùng quẫn định tự sát thì thuộc hạ quỳ xuống van xin ngăn lại, Lê Lợi biết chuyện khen ngợi, tới ngày 17 tháng 12 năm 1427 thì cho người thả về Trung Quốc theo đường Long Châu, tỉnh Quảng Tây.

Mộc Thạnh đóng quân ở vùng ải Lê Hoa đến Lãnh Thủy câu (冷水溝), nghe tin Liễu Thăng thua to nên kinh hồn, bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa ở Lãnh Thủy câu và Đan Xá (丹舍). Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng 11 năm 1427 (tức 26 tháng 10 âm, năm Đinh Mùi), Mộc Thạnh cùng thuộc hạ chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ thì bị quân Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên bờ, phải vất vả làm lại thuyền mới chạy thoát.

Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688.

Vương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh Mùi (1427) rút quân về.

Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.

Tháng chạp, Vương Thông rút quân về nước. Các tướng muốn giết địch để trả thù tội ác khi cai trị Việt Nam, Lê Lợi không đồng tình vì muốn giữ hòa khí hai nước, cho nên ông phán:

Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản-tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh.

Thế rồi ông cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về. Vương Thông dẫn 10 vạn quân trở về nước Minh. Ông được Lê Lợi đưa tiễn nồng hậu. Về Đại Minh, Vương Thông cùng một số tướng khác bị Minh Tuyên Tông xử tội.

Sách Minh sử thông giám kỷ sự chép:

"[Vương] Thông đến kinh đô (Bắc Kinh) rồi, quần thần nhà Minh tới tấp dâng tấu sớ lên đàn hặc Thông và bọn Mã Anh, Mã Kỳ, Sơn Thọ. Hình quan trong triều làm việc xét hỏi, bọn Thông đều thú nhận cả. Định nghị cho rằng Thông thì phạm tội không giữ quân luật, làm thiệt quân và bỏ mất đất; Sơn Thọ thì phạm tội che chở bênh vực cho bọn phản nghịch, Mã Kỳ thì làm kích động gây biến ở nơi phiên thuộc. Tất cả đều đáng luận vào tội xử tử. Vua Minh xuống chiếu: tống giam Thông vào ngục và tịch thu gia sản; còn bọn Mã Anh cũng đều phạt tội có nặng nhẹ khác nhau. Sau đó Lê Lợi sai đưa trả 157 quan lại, 15170 lính thú và 1200 con ngựa; còn số người bị giữ không cho về nước không biết bao nhiêu mà kể".

Bình luận về việc Minh Tuyên Tông ra lệnh bãi binh ở Đại Việt, sử gia Trung Quốc là Cốc Vĩnh Thái viết trong Minh sử kỷ sự bản mạt:

Vương Thông lực yếu mà phải xin hòa, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hoà vậy.

Ngày 3 tháng 1 năm 1428 Thành Sơn hầu Vương Thông, chỉ huy trưởng Giao Chỉ, lập lời thề với Lê Lợi. Thông chưa đợi lệnh Minh triều mà tự ý cho rút hết quân về Quảng Tây bằng đường bộ. Các Thái giám Sơn Thọ và thuộc hạ theo đường thủy về Tần Châu. Dân và quân Minh về nước khoảng 86.640 người, số còn lại bị Lê Lợi giữ.

Ngày 29 tháng 12 năm 1427, khi Vương Thông rút về nước, Lê Lợi trao trả nhà Minh vừa tù binh, vừa hàng binh. Theo Minh sử, số người trở về nước là 84.640; số người bị giữ lại không tính được.[2]

Tháng giêng năm 1428, nhà Minh có thư sang yêu cầu Lê Lợi trả hết số người và vũ khí ở Đại Việt. Lê Lợi bèn ra lệnh cấm người Việt chứa giấu người Minh, chỉ giấu 1 người cũng xử tội chết, vì vậy người Minh lần lượt ra đầu thú để về nước.

Năm 1429, Lê Lợi sai Đào Công Soạn đi sứ, dâng thư và trao trả những người và vũ khí còn lại, bao gồm quân quan 580 người, dân quân và lại 157 người, kỳ quân 15.170 người, ngựa 1.200 con.

Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho thiên hạ biết về việc đánh bại quân Minh; được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà.[64][65] Bài Bình Ngô đại cáo trở thành một áng văn chương có giá trị to lớn của Đại Việt thời Lê sơ.

Thay trời hành hóa, Hoàng thượng dường bảo:

Làm việc nhân nghĩa là cốt yên dân;

Nổi binh cứu dân trước cần trừ bạo.

Trải Triệu Đinh Lý Trần nối đời dựng nước.

Cùng Hán Đường Tống Nguyên đều chủ một phương.

Tuy mạnh yếu đời có khác nhau;

Mà hào kiệt thuở nào lại thiếu.

Nên Lưu Cung tham công mà đến bại;

Triệu Tiết hiếu đại mà cũng thua.

Ô Mã lại chết ở Bạch Đằng hải.

Vừa rồi họ Hồ chính sự phiền hà;

Đến nỗi khắp nơi nhân tâm oán phản.

Giặc Minh rình hở, thừa dịp để hại ta;

Đảng ngụy ngầm mưu, theo hùa mà bán nước.

Dối trời lừa người, kế độc đủ muôn nghìn khóe;

Lùa binh gây hấn, ác chứa hàng hai chục năm.

Tan nghĩa nát nhân, càn khôn cơ hồ muốn dứt;

Cao sưu nặng thuế, chằm núi chẳng còn chút lưa.

Khai mỏ vàng thì xông lam chướng mà đẽo núi đãi bùn;

Mò ngọc trai thì mặc giao long mà giòng lưng lặn biển.

Nhiễu dân, hầm sập hươu đen đầy rú;

Hại vật, lưới vây chả biếc khắp đồng.

Cỏ cây sâu bọ đều chẳng được sống yên thân;

Quan quả cô cùng cũng chẳng được ở yên chỗ...

Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tây), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe dọa phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Nhà Minh lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ.

Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức khôi phục nước Đại Việt, dựng lên nhà Hậu Lê. Ông bắt tay vào việc thiết lập chính quyền trung ương và địa phương, chấn hưng kinh tế, giáo dục, đặt ra luật pháp, lễ nhạc,... mở ra một kỷ nguyên thịnh trị cho nước Việt. Đại Việt thịnh đạt từ đây cho đến khi chắt của Lê Thái Tổ là Lê Hiến Tông mất năm 1504.[

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: "Tháng 2, định các mức khen thưởng cho những hỏa thủ và quân nhân của quân Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai bao gồm 121 người".

Công hạng nhất được ban quốc tính là Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, 52 người làm Vinh Lộc Đại phu, Tả Kim ngô vệ Đại tướng quân, tước Thượng trí tự.

Công hạng hai, được ban quốc tính là Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo, 72 người, làm Trung Lượng Đại phu, Tả Phụng thần vệ tướng quân, tước Đại trí tự.

Công hạng ba, được ban quốc tính là Lê Lễ 94 người, làm Trung Vũ Đại phu, Câu kiềm vệ tướng quân, tước Trí tự.

Theo "Chức quan chí" trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tháng 5 năm 1429 khi Lê Thái Tổ phong mọi tước hầu (liệt hầu) cho các công thần, gồm có 9 bậc:

·         Thứ nhất: Huyện thượng hầu.

·         Thứ hai: Á thượng hầu.

·         Thứ ba: Hương thượng hầu

·         Thứ tư: Đình thượng hầu.

·         Thứ bảy: Quan nội hầu.

·         Thứ tám: Quan phục hầu.

·         Thứ chín: Trước phục hầu.

Bấy giờ có 93 người được phong tước và khắc biển công thần (những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó):

1.     Huyện Thượng hầu, 3 người: Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo.

2.     Á Thượng hầu, 1 người: Lê Ngân.

3.     Hương Thượng hầu, 3 người: Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng.

4.     Đình Thượng hầu, 14 người: Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Lật.

5.     Huyện hầu, 14 người: Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Đỗ Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật;

6.     Á hầu, 26 người: Lê Lạn v.v...

7.     Quan nội hầu, 16 người: Lê Thiệt, Lê Chương,...

8.     Quan phục hầu, 12 người: Phạm Cuống, Lê Dao, Nguyễn Trãi,...

9.     Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người: Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, v.v...

Các tướng tử trận khi khởi nghĩa chưa kết thúc như Lê Thạch, Lê Lai, Đinh Lễ, Lý Triện cũng đều được truy tặng.

Đăng lúc: 28/09/2023 00:07:03 (GMT+7)

Khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc thành lập trở lại nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê

Trong giai đoạn đầu (1418–1423), nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường hứng chịu các cuộc càn quét của quân Minh và quân Ai Lao, chịu tổn thất lớn. Các tướng Lam Sơn là Lê Lai và Lê Thạch tử trận. Quân Lam Sơn bấy giờ chỉ có thể thắng những trận nhỏ. Nghĩa quân bắt đầu giành thế thượng phong khi Lê Lợi nghe theo Nguyễn Chích, tiến quân ra đất Nghệ An vào năm 1424. Sau nhiều trận đánh lớn với quân Minh do các tướng Minh và cộng sự người Việt chỉ huy, quân Lam Sơn giải phóng hầu hết vùng đất từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa, siết chặt vòng vây các thành chưa đầu hàng. Ở giai đoạn cuối, sau khi tích lũy được lực lượng, quân Lam Sơn lần lượt chuyển đại quân ra Bắc, thực hiện chiến lược cơ động, buộc quân Minh phải co cụm để giữ các thành trì quan trọng. Đặc biệt với chiến thắng quyết định trong trận Tốt Động – Chúc Động, quân Lam Sơn giành được thế chủ động trên chiến trường và sự ủng hộ của dân chúng vốn khiếp sợ trước uy thế của quân Minh trước đó. Tiếp nối thắng lợi, cuối năm 1427, quân Lam Sơn triển khai chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang, đánh tan tác lực lượng viện binh quân Minh, buộc tướng chỉ huy quân Minh trên đất Việt cũ là Vương Thông phải xin giảng hòa và được phép rút quân về nước. Sau chiến thắng, Bình Định vương Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc.  Nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, mở ra cơ nghiệp nhà Lê trong gần 400 năm sau đó.

Khởi  Nghĩa  Lam Sơn được diễn ra trong hoàn cảnh sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đặt ách đô hộ lên nước Việt, đặt nước Việt trở thành quận Giao Chỉ. Người Việt lập tức nổi lên chống quân Minh, mà lớn nhất là của nhà Hậu Trần, đã có những thời điểm tưởng chừng có thể khôi phục lại giang sơn của người Việt. Tuy nhiên, do sự thiếu đoàn kết giữa các thủ lĩnh quân nổi dậy người Việt, quân Minh vừa mua chuộc gây chia rẽ, vừa khủng bố trấn áp rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây...), hòng đè bẹp mọi ý chí phản kháng của người Việt. Mặc dù vậy, dưới sự cai trị tàn bạo, khắc nghiệt của nhà Minh, người Việt rất oán hận, luôn ấp ủ chờ thời cơ nổi dậy.

Lê Lợi vốn là phụ đạo Lam Sơn (tên gọi thổ tù), nối đời làm hào trưởng Lam Sơn, trước từng theo vua Trùng Quang làm chức Kim ngô Tướng quân, sau Hoàng Phúc chiêu dụ đến cho làm Thổ quan Tuần kiểm, Lê Lợi không theo.  Ông ẩn thân ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình đọc sách kinh sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách Thao Lược; hậu đãi các tân khách; chiêu nạp kẻ trốn, kẻ làm phản; ngầm nuôi kẻ mưu trí; bỏ của, phát thóc để giúp cho kẻ côi cút, nghèo nàn; hậu lễ, nhún lời để thu nạp anh hùng hào kiệt; đều được lòng vui vẻ của họ. Những hào kiệt như Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quang Thanh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu và Lê Xa Lôi nối tiếp đến quy phục. Lê Lợi thấy người Minh tàn ngược, khẳng khái nói:

Trượng phu sinh ở đời phải nên cứu nạn lập công, sao lại chịu khổ làm tôi tớ người ta!

Lại thường lời lẽ nhún nhường, đem nhiều vàng, bạc, của báu, đút lót cho các tướng nhà Minh là Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong họ không hãm hại mình để chờ thời cơ. Ngụy quan người Việt Lương Nhữ Hốt bàn với tướng Minh, nói rằng:

Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu, chí nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây mưa, thì tất không phải là vật ở trong ao đâu! Nên sớm trừ đi, đừng để sau sinh vạ.

Nhà Minh tin lời Lương Nhữ Hốt, bức bách Lê Lợi gấp gáp, Lê Lợi bèn đại hội tướng sĩ, bàn việc khởi binh. Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Thân, năm 1418 Lê Lợi khởi binh ở Lam Sơn, xưng là Bình Định vương, cử cháu là Lê Thạch làm Tướng quốc, truyền hịch đi các nơi cùng chống quân Minh. Cuộc khởi nghĩa mở đầu được Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:

... Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Lý... tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn (trong đó 19 người đã từng tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416), xưng là Bình Định vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước. Địa danh Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Lam Sơn thực lục, buổi đầu khởi nghĩa Lam Sơn:

“Nguyên trước Nhà vua kinh doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng; cùng những quân-thân như cha, con; hai trăm thiết kỵ, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên-chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi.

Khi ấy, quân Minh đã thiết lập được sự cai trị trên đất Đại Việt, với 5 vạn quân, voi ngựa hàng trăm con. Trong khi đó quân Khởi nghĩa Lam Sơn hoạt động khó khăn ở vùng núi Thanh Hóa . Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh do các tướng như Lý Bân, Phương Chính chỉ huy đánh bại.

Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn 3 lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị quân Minh vây gắt ở núi Chí Linh (có sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, một nghĩa sĩ của Lê Lợi là Lê Lai theo gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị quân Minh giải về Đông Quan và bị giết.

Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều khó khăn, quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ăn.

Trước tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hòa.

Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424, Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng (Bất Căng, Thọ Xuân) do Lương Nhữ Hốt giữ, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Lân. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trần Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Cầm Bành phải đầu hàng.

Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ An, lại mang quân chủ lực cùng tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ.

Lý An, Phương Chính từ Đông Quan (Hà Nội ngày nay) vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An.

Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong thành.

Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hoá. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt.

Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành địch đều bị bao vây.

Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây Bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc, Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.[27][28].

Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan.

Viện quân từ Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy kéo sang, nhưng bị Phạm Văn Xảo phá tan. An Lão chạy về cố thủ ở thành Tam Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Quân Lam Sơn định đón đường ngăn chặn nhưng không được. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra bắc.

Để đối phó lại tình hình nguy cấp, năm 1426, nhà Minh cho huy động 20.000 quân từ nhiều tỉnh phía nam tiến vào tiếp viện. Các quan lại nhà Minh tại Việt Nam cũng được lệnh mộ thêm 30.000 thổ binh bản xứ hỗ trợ. Thêm vào đó, nhà Minh cho gửi thêm hỏa khí sang trợ chiến, và các tướng Minh tại Giao Chỉ cũng rút hết quân làm đồn điền (trồng lúa lấy lương - khoảng 8.000 thổ binh bản xứ) để đối phó với quân nổi dậy. Trần Trí, Phương Chính bị cách chức, bị đặt dưới quyền Vương Thông sai khiến để lấy công chuộc tội. Tại Vân Nam, Mộc Thạnh cũng được lệnh tuyển mộ 15 ngàn bộ binh và 3 ngàn cung thủ chuẩn bị sẵn sàng. Từ Quảng Tây, tướng Minh là Cố Hưng Tổ (Gu Xing-zu) được lệnh đưa 5.000 quân bản bộ sang tiếp ứng với Vương Thông.

Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện, hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ ra chặn đánh quân Lam Sơn. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.

Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động (các địa danh này ngày nay đều thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội)[ . Nhân biết Vương Thông định chia đường đánh úp Lê Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Sử chép ba đạo quân ra bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thành 4) chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 35 vạn, ông dự định sẽ cho 25 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân.[41][42]

Ngoài ra, theo tác giả Karl Hack, sau khi nhà Hậu Trần thất bại, nhà Minh cho rằng sự bình định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt. Đây có lẽ là lý do làm cho sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau này.

Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan.

Vương Thông thua chạy không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần (vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên Minh Thành Tổ đã lấy danh nghĩa muốn lập lại nhà Trần mà mang quân sang đánh nhà Hồ, nay Vương Thông muốn vin vào đó), ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua.

Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Theo sử sách, Trần Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội của vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số sử gia gần đây, việc Trần Cảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác định, có thể chữ "mạo xưng" mà sử sách ghi là do các sử gia nhà Lê chép vào để làm giảm uy tín của Cảo.

Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về nước xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa.

Sau khi cắt đứt giảng hòa, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc Bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được.

Đầu năm 1427, Lê Lợi chia quân tiến qua sông Nhị Hà, đóng dinh ở Bồ Đề[, sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân.

Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các thành khác ra hàng.

Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Đinh Lễ bị giặc giết hại, sau Nguyễn Xí lợi dụng một đêm mưa giông mà trốn thoát được.

Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Thành Sơn hầu Vương Thông, sai An Viễn hầu Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Chinh Nam tướng quân Thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nói cao lên, trên thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Thăng.

Theo Minh sử thì tới cuối tháng 1 năm 1427, nhà Minh điều động từ Bắc Kinh, Nam Kinh và khắp các tỉnh miền nam Trung Quốc khoảng 70.000 quân. Để cung ứng lương thảo, tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hễ nơi nào có dư lương thực đều phải tức tốc vận chuyển về để cung ứng cho đạo quân viễn chinh. Tới cuối tháng 3, nhà Minh lại điều thêm 2.200 vệ binh từ Vũ Xương và Thành Đô, 10.000 quân tinh nhuệ từ Nam Kinh và 33.000 quân từ các tỉnh miền nam Trung Quốc đặt dưới quyền Liễu Thăng và Mộc Thạnh.

Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan. Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hóa, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Nguyễn Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh.

Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Liễu Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 10 năm 1427), Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Tới tận ngày 25 tháng 12 năm 1427, vua Minh mới nhận được tin Liễu Thăng bị giết.

Các tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc, Thôi Tụ và hơn 3 vạn quân bị bắt. Do quyết tâm không quy hàng, Thôi Tụ bị giết. Hoàng Phúc bị bắt khi định chạy theo ngả Chi Lăng, y cùng quẫn định tự sát thì thuộc hạ quỳ xuống van xin ngăn lại, Lê Lợi biết chuyện khen ngợi, tới ngày 17 tháng 12 năm 1427 thì cho người thả về Trung Quốc theo đường Long Châu, tỉnh Quảng Tây.

Mộc Thạnh đóng quân ở vùng ải Lê Hoa đến Lãnh Thủy câu (冷水溝), nghe tin Liễu Thăng thua to nên kinh hồn, bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa ở Lãnh Thủy câu và Đan Xá (丹舍). Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng 11 năm 1427 (tức 26 tháng 10 âm, năm Đinh Mùi), Mộc Thạnh cùng thuộc hạ chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ thì bị quân Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên bờ, phải vất vả làm lại thuyền mới chạy thoát.

Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688.

Vương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh Mùi (1427) rút quân về.

Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.

Tháng chạp, Vương Thông rút quân về nước. Các tướng muốn giết địch để trả thù tội ác khi cai trị Việt Nam, Lê Lợi không đồng tình vì muốn giữ hòa khí hai nước, cho nên ông phán:

Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản-tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh.

Thế rồi ông cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về. Vương Thông dẫn 10 vạn quân trở về nước Minh. Ông được Lê Lợi đưa tiễn nồng hậu. Về Đại Minh, Vương Thông cùng một số tướng khác bị Minh Tuyên Tông xử tội.

Sách Minh sử thông giám kỷ sự chép:

"[Vương] Thông đến kinh đô (Bắc Kinh) rồi, quần thần nhà Minh tới tấp dâng tấu sớ lên đàn hặc Thông và bọn Mã Anh, Mã Kỳ, Sơn Thọ. Hình quan trong triều làm việc xét hỏi, bọn Thông đều thú nhận cả. Định nghị cho rằng Thông thì phạm tội không giữ quân luật, làm thiệt quân và bỏ mất đất; Sơn Thọ thì phạm tội che chở bênh vực cho bọn phản nghịch, Mã Kỳ thì làm kích động gây biến ở nơi phiên thuộc. Tất cả đều đáng luận vào tội xử tử. Vua Minh xuống chiếu: tống giam Thông vào ngục và tịch thu gia sản; còn bọn Mã Anh cũng đều phạt tội có nặng nhẹ khác nhau. Sau đó Lê Lợi sai đưa trả 157 quan lại, 15170 lính thú và 1200 con ngựa; còn số người bị giữ không cho về nước không biết bao nhiêu mà kể".

Bình luận về việc Minh Tuyên Tông ra lệnh bãi binh ở Đại Việt, sử gia Trung Quốc là Cốc Vĩnh Thái viết trong Minh sử kỷ sự bản mạt:

Vương Thông lực yếu mà phải xin hòa, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hoà vậy.

Ngày 3 tháng 1 năm 1428 Thành Sơn hầu Vương Thông, chỉ huy trưởng Giao Chỉ, lập lời thề với Lê Lợi. Thông chưa đợi lệnh Minh triều mà tự ý cho rút hết quân về Quảng Tây bằng đường bộ. Các Thái giám Sơn Thọ và thuộc hạ theo đường thủy về Tần Châu. Dân và quân Minh về nước khoảng 86.640 người, số còn lại bị Lê Lợi giữ.

Ngày 29 tháng 12 năm 1427, khi Vương Thông rút về nước, Lê Lợi trao trả nhà Minh vừa tù binh, vừa hàng binh. Theo Minh sử, số người trở về nước là 84.640; số người bị giữ lại không tính được.[2]

Tháng giêng năm 1428, nhà Minh có thư sang yêu cầu Lê Lợi trả hết số người và vũ khí ở Đại Việt. Lê Lợi bèn ra lệnh cấm người Việt chứa giấu người Minh, chỉ giấu 1 người cũng xử tội chết, vì vậy người Minh lần lượt ra đầu thú để về nước.

Năm 1429, Lê Lợi sai Đào Công Soạn đi sứ, dâng thư và trao trả những người và vũ khí còn lại, bao gồm quân quan 580 người, dân quân và lại 157 người, kỳ quân 15.170 người, ngựa 1.200 con.

Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho thiên hạ biết về việc đánh bại quân Minh; được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà.[64][65] Bài Bình Ngô đại cáo trở thành một áng văn chương có giá trị to lớn của Đại Việt thời Lê sơ.

Thay trời hành hóa, Hoàng thượng dường bảo:

Làm việc nhân nghĩa là cốt yên dân;

Nổi binh cứu dân trước cần trừ bạo.

Trải Triệu Đinh Lý Trần nối đời dựng nước.

Cùng Hán Đường Tống Nguyên đều chủ một phương.

Tuy mạnh yếu đời có khác nhau;

Mà hào kiệt thuở nào lại thiếu.

Nên Lưu Cung tham công mà đến bại;

Triệu Tiết hiếu đại mà cũng thua.

Ô Mã lại chết ở Bạch Đằng hải.

Vừa rồi họ Hồ chính sự phiền hà;

Đến nỗi khắp nơi nhân tâm oán phản.

Giặc Minh rình hở, thừa dịp để hại ta;

Đảng ngụy ngầm mưu, theo hùa mà bán nước.

Dối trời lừa người, kế độc đủ muôn nghìn khóe;

Lùa binh gây hấn, ác chứa hàng hai chục năm.

Tan nghĩa nát nhân, càn khôn cơ hồ muốn dứt;

Cao sưu nặng thuế, chằm núi chẳng còn chút lưa.

Khai mỏ vàng thì xông lam chướng mà đẽo núi đãi bùn;

Mò ngọc trai thì mặc giao long mà giòng lưng lặn biển.

Nhiễu dân, hầm sập hươu đen đầy rú;

Hại vật, lưới vây chả biếc khắp đồng.

Cỏ cây sâu bọ đều chẳng được sống yên thân;

Quan quả cô cùng cũng chẳng được ở yên chỗ...

Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tây), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe dọa phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Nhà Minh lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ.

Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức khôi phục nước Đại Việt, dựng lên nhà Hậu Lê. Ông bắt tay vào việc thiết lập chính quyền trung ương và địa phương, chấn hưng kinh tế, giáo dục, đặt ra luật pháp, lễ nhạc,... mở ra một kỷ nguyên thịnh trị cho nước Việt. Đại Việt thịnh đạt từ đây cho đến khi chắt của Lê Thái Tổ là Lê Hiến Tông mất năm 1504.[

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: "Tháng 2, định các mức khen thưởng cho những hỏa thủ và quân nhân của quân Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng Nhai bao gồm 121 người".

Công hạng nhất được ban quốc tính là Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, 52 người làm Vinh Lộc Đại phu, Tả Kim ngô vệ Đại tướng quân, tước Thượng trí tự.

Công hạng hai, được ban quốc tính là Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo, 72 người, làm Trung Lượng Đại phu, Tả Phụng thần vệ tướng quân, tước Đại trí tự.

Công hạng ba, được ban quốc tính là Lê Lễ 94 người, làm Trung Vũ Đại phu, Câu kiềm vệ tướng quân, tước Trí tự.

Theo "Chức quan chí" trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tháng 5 năm 1429 khi Lê Thái Tổ phong mọi tước hầu (liệt hầu) cho các công thần, gồm có 9 bậc:

·         Thứ nhất: Huyện thượng hầu.

·         Thứ hai: Á thượng hầu.

·         Thứ ba: Hương thượng hầu

·         Thứ tư: Đình thượng hầu.

·         Thứ bảy: Quan nội hầu.

·         Thứ tám: Quan phục hầu.

·         Thứ chín: Trước phục hầu.

Bấy giờ có 93 người được phong tước và khắc biển công thần (những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó):

1.     Huyện Thượng hầu, 3 người: Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo.

2.     Á Thượng hầu, 1 người: Lê Ngân.

3.     Hương Thượng hầu, 3 người: Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng.

4.     Đình Thượng hầu, 14 người: Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Lật.

5.     Huyện hầu, 14 người: Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Đỗ Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật;

6.     Á hầu, 26 người: Lê Lạn v.v...

7.     Quan nội hầu, 16 người: Lê Thiệt, Lê Chương,...

8.     Quan phục hầu, 12 người: Phạm Cuống, Lê Dao, Nguyễn Trãi,...

9.     Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người: Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, v.v...

Các tướng tử trận khi khởi nghĩa chưa kết thúc như Lê Thạch, Lê Lai, Đinh Lễ, Lý Triện cũng đều được truy tặng.

Địa chỉ tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về giải quyết TTHC

Địa chỉ: UBND Xã Thọ Lộc, Thôn 4, Xã Thọ Lộc, Huyện Thọ Xuân SĐT: 02378930568 Email: [email protected]

Khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc kháng chiến của người Việt do Lê Lợi lãnh đạo nhằm chống lại sự cai trị của nhà Minh, bắt đầu từ đầu năm 1418 và kết thúc cuối năm 1427 với thắng lợi của Nghĩa quân Lam Sơn cùng sự rút lui về nước của quân Minh sau hội thề Đông Quan.

Năm 1407, Đại Minh sáp nhập toàn bộ lãnh thổ Đại Ngu của nhà Hồ, thành lập tỉnh Giao Chỉ. Sau khi thiết lập nền cai trị, Minh Thành Tổ thi hành chính sách Hán hóa một cách quyết liệt nhằm đồng hóa người Việt. Chính sách này gây ra sự bất mãn trong dân chúng, dẫn tới sự bùng nổ của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trên khắp Giao Chỉ nhưng tất cả đều thất bại. Sau khi trấn áp các cuộc nổi dậy địa phương, sự cai trị của nhà Minh trở nên vững vàng hơn bao giờ hết, song tại một số địa phương vẫn tồn tại nguy cơ nổi loạn tiềm tàng, đặc biệt là ở vùng miền núi Thanh Nghệ, nơi người dân không sẵn sàng chịu khuất phục như dân chúng vùng Kinh lộ.

Năm 1418, Lê Lợi dấy binh ở Lam Sơn, Thanh Hóa. Trong giai đoạn đầu, nghĩa quân Lam Sơn gặp nhiều khó khăn, thường chỉ chống cự yếu ớt và chịu tổn thất lớn trước các cuộc truy quét của quân Minh. Bước ngoặt xảy ra khi Lê Lợi nghe theo kế của Nguyễn Chích, tiến vào giải phóng Nghệ An vào năm 1424, sử dụng nơi đây làm bàn đạp đánh ra những nơi khác. Sau nhiều cuộc đụng độ với quân Minh, nghĩa quân Lam Sơn kiểm soát hầu hết vùng đất từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa, siết chặt vòng vây các thành chưa đầu hàng. Năm 1426, sau khi tích lũy được lực lượng, Lê Lợi lần lượt huy động các đạo quân ra Bắc. Áp dụng phương châm "tránh mạnh đánh yếu" và chiến lược cơ động, quân Lam Sơn dần buộc quân Minh phải co cụm để giữ các thành trì quan trọng. Với chiến thắng trước lực lượng áp đảo của nhà Minh do Vương Thông chỉ huy trong chiến dịch Tốt Động – Chúc Động, nghĩa quân bắt đầu giành được sự ủng hộ của đại bộ phận dân chúng Kinh lộ vốn khiếp sợ uy thế của người Minh. Nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ dân chúng, nghĩa quân Lam Sơn chuyển sang nắm thế chủ động, buộc quân Minh chỉ còn cách cố thủ trong các thành trì đợi chờ đạo viện binh tiếp theo.

Lợi dụng sĩ khí quân Minh đang gần như chạm đáy sau những thất bại liên tiếp, Lê Lợi đẩy mạnh công tác địch vận và tâm lý chiến, sử dụng biện pháp ngoại giao để chiêu hàng các thành đang bị bao vây. Chỉ trong thời gian ngắn, phần lớn các thành trì trọng điểm của nhà Minh ở miền Bắc Giao Chỉ – hoặc tự đầu hàng hoặc bị công phá – đều rơi vào tay nghĩa quân Lam Sơn. Quân Minh chỉ còn kiểm soát hai trọng trấn Đông Quan, Thanh Hóa và một vài tòa thành nhỏ lẻ khác, nhưng tất cả đều trong tình trạng bị vây hãm nghiêm ngặt và cô lập hoàn toàn. Năm 1427, trong nỗ lực cuối cùng nhằm cứu vãn tình thế, Minh Tuyên Tông sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh dẫn 11 vạn quân chia làm hai đường tiến sang Giao Chỉ tiếp viện Vương Thông. Tuy nhiên, cánh quân chính do Liễu Thăng chỉ huy bị nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt gần như hoàn toàn trong trận Chi Lăng – Xương Giang. Bản thân Liễu Thăng cùng nhiều tướng lĩnh cao cấp khác tử trận. Mộc Thạnh được tin liền vội vàng rút lui nhưng cũng bị nghĩa quân truy kích đánh bại.

Việc hai đạo viện binh bị tiêu diệt hoàn toàn đã đặt dấu chấm hết cho nỗ lực giành lại kiểm soát Giao Chỉ của nhà Minh. Vương Thông buộc phải xin đầu hàng và được phép rút quân về nước an toàn theo thỏa thuận tại hội thề Đông Quan. Sau chiến thắng, Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc. Nền tự chủ của người Việt được khôi phục sau hai thập kỷ thuộc Minh. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, mở ra cơ nghiệp nhà Hậu Lê kéo dài gần 400 năm.

Những năm cuối thế kỷ 14, Đại Việt dưới sự cai trị của nhà Trần bước vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc trên nhiều phương diện. Bên cạnh những yếu tố ngoại sinh như cuộc chiến dai dẳng với Champa, thảm họa thời tiết, dịch bệnh hay mất mùa thì những khủng hoảng trong cơ cấu kinh tế, xã hội và thiết chế chính trị đã khiến Đại Việt suy yếu trầm trọng. Những mâu thuẫn gay gắt bùng nổ giữa giới quý tộc với nông nô, nô tỳ, giữa giới quý tộc với tầng lớp quan lại–sĩ phu trong cuộc đấu tranh giành quyền lực trong bộ máy chính quyền. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn đến những cuộc khởi nghĩa nông dân, nông nô và nô tỳ hay thậm chí cả lực lượng tôn giáo, đe dọa nghiêm trọng tới tính chính danh của nhà Trần và làm suy yếu chính quyền trung ương. Bên cạnh những yếu tố trên, sự xuất hiện của một loạt vị vua thiếu năng lực sau thời Trần Minh Tông tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thích Lê Quý Ly – một nhà cải cách đầy tham vọng – từng bước thâu tóm quyền lực tối thượng, khống chế triều chính.

Năm 1400, Lê Quý Ly soán vị nhà Trần, đổi sang họ Hồ và lập ra nhà Hồ, cải quốc hiệu là "Đại Ngu". Năm 1401, ông truyền ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương và lui về làm thái thượng hoàng, song vẫn là người điều khiển chính sự. Về mặt đối nội, ngay từ lúc chưa soán vị nhà Trần, Hồ Quý Ly đã cho thi hành nhiều cải cách cực đoan. Ngoài những việc như sử dụng tiền giấy kém chất lượng thay cho tiền đồng truyền thống, dời đô từ Thăng Long vào thành Tây Đô ở Thanh Hóa, Hồ Quý Ly còn thực hiện những thay đổi đáng kể trong hệ thống chính trị và xã hội.[11] Tuy nhiên, những cải cách trên không những không thể giải quyết mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn nội bộ vốn đã thành hình từ cuối thời Trần, mà còn xâm phạm đến lợi ích của nhiều tầng lớp, gây ra sự bất mãn trong dân chúng.

Về phía Trung Quốc, Minh Thái Tổ – vị vua sáng lập nhà Minh – đã thiết lập một "trật tự Trung Hoa" dựa trên hệ thống triều cống, coi An Nam (cách gọi Đại Việt của người Trung Quốc) và nhiều quốc gia láng giềng khác là những nước phiên thuộc nằm trong diện "bất chinh chi quốc".[a] Ông để lại di huấn cho các đời sau, khuyên không nên chinh phạt các vùng đất xa xôi vì chúng không mang lại lợi ích kinh tế cho Trung Hoa. Trái ngược với quan điểm của cha mình, Minh Thành Tổ – sau khi đoạt ngôi cửu ngũ từ Minh Huệ Đế trong loạn Tĩnh Nan – đã tỏ rõ "khát vọng bá quyền" bằng cách triển khai các cuộc bành trướng lãnh thổ, theo gương các đế chế Hán, Đường và Nguyên. Đối với ông, cuộc xâm lược Đại Việt không chỉ là một hành động mở rộng lãnh thổ, mà còn là bước đi trong tham vọng vươn ra biển lớn, được thể hiện qua các chuyến hải trình tới Tây Dương của Trịnh Hòa. Minh Thành Tổ tin rằng việc sáp nhập An Nam sẽ củng cố thêm uy thế của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Ông cũng gặp phải nhiều phản đối và nghi ngờ về tính chính danh sau khi lên ngôi, vì vậy việc phát động một chiến dịch quân sự lớn có thể được coi là cách để chuyển hướng sự chú ý trong nước ra bên ngoài, đồng thời khẳng định năng lực bản thân.

Sau khi lật đổ nhà Trần, mối quan hệ giữa nhà Hồ và nhà Minh trở nên căng thẳng. Nguyên nhân chính là do các tranh chấp về đất đai vùng biên và cuộc chiến giữa Đại Ngu và Champa. Cuộc chiến này làm dấy lên lo ngại trong triều đình nhà Minh, vì họ coi khu vực này là vùng ảnh hưởng của mình và muốn duy trì quyền bá chủ trong khu vực. Quan hệ giữa hai nước phần nào được xoa dịu sau khi xung đột đất đai được giải quyết và Hồ Hán Thương được nhà Minh gia phong làm "An Nam quốc vương". Tưởng chừng như tính chính danh của họ Hồ đã được củng cố thì vào tháng 10 năm 1404, một nhân vật tên Trần Thiêm Bình xuất hiện tại Nam Kinh, tự xưng là con Trần Nghệ Tông, trình bày hành động soán ngôi đoạt vị của họ Hồ với Minh Thành Tổ. Dù đặt nghi vấn về danh tính thực sự của Trần Thiêm Bình, song dưới áp lực từ triều đình nhà Minh, cha con Hồ Quý Ly buộc phải thể hiện sự nhượng bộ, đồng ý rước người này về nước làm vua. Tháng 1 năm 1406, Minh Thành Tổ ra lệnh 5.000 quân hộ tống Thiêm Bình về nước. Tuy nhiên, đội quân này khi gần tới Đông Đô thì bị phục binh nhà Hồ đổ ra tập kích, Trần Thiêm Bình bị bắt và xử tử. Hành động này khiến căng thẳng giữa Đại Ngu và Đại Minh leo thang tột độ.

Tức giận trước hành động "tráo trở" trên, Minh Thành Tổ quyết định cử thêm quân sang An Nam để trừng phạt cha con Hồ Quý Ly.[23] Tháng 11 năm 1406, dưới danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ", hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh dẫn 225.000 quân sang đánh Đại Ngu. Với lực lượng áp đảo, quân Minh dễ dàng xuyên thủng các tuyến phòng thủ của họ Hồ, buộc Hồ Quý Ly phải tháo chạy về Tây Đô.[25] Quân Minh sử dụng hỏa khí và áp dụng các chiến thuật mới từng sử dụng trong chiến dịch bình định Vân Nam để đối phó với lực lượng tượng binh của Hồ Quý Ly. Thêm vào đó, việc đánh mất lòng dân cùng với những sai lầm chí tử trong khâu tổ chức tác chiến khiến nhà Hồ chống cự yếu ớt và nhanh chóng bị đánh bại. Tháng 6 năm 1407, cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt sống, nhà Hồ cáo chung chỉ sau 7 năm tồn tại.

Minh Thành Tổ cùng nhiều nhân vật cốt cán trong triều, tiêu biểu là Trương Phụ, chủ trương sáp nhập An Nam vào Đại Minh thay vì lựa chọn phục hồi ngôi vị cho tông thất nhà Trần. Quan điểm chủ đạo của người Hán thời bấy giờ không coi An Nam là một nước phiên thuộc, mà là một "vùng đất lịch sử" từng thuộc Trung Quốc và cần được tái thu hồi như thời Hán, Đường. Do đó, ngay từ khi chưa bắt được cha con Hồ Quý Ly, triều đình nhà Minh đã tìm cách biến An Nam trở lại làm một phần của Trung Quốc. Lấy lý do nhiều quan lại, bô lão người Việt chủ động xin được trở lại làm quận huyện của nhà Minh vì họ Trần đã tuyệt tự, nhà Minh tiến hành sáp nhập toàn bộ lãnh thổ nước Đại Ngu cũ, thiết lập tỉnh Giao Chỉ.

Để ổn định bộ máy cai trị, nhà Minh thực hiện chính sách chia để trị, sử dụng quan lại người Việt để cai trị người Việt. Những người quy phục được bảo đảm tài sản và sinh mạng, đồng thời nhận được chức tước, ruộng đất và tiền tài.[31] Tuy nhiên, chính quyền nhà Minh không chỉ dừng lại ở việc ổn định chính trị mà còn tìm cách thay đổi cấu trúc xã hội và văn hóa bản địa. Trong nỗ lực đồng hóa, nhà Minh áp đặt các quy chuẩn văn hóa từ Trung Quốc, bao gồm thay đổi trang phục, xây dựng văn miếu và áp dụng tư tưởng Lý học Chu Hi làm chuẩn mực chính trị và đạo đức. Các biện pháp này nhằm thay thế hệ tư tưởng Nho giáo cổ của người Việt thời Trần. Những chính sách mà nhà Minh thi hành gây ra sự chia rẽ sâu sắc trong các tầng lớp người Việt, đặc biệt ở tầng lớp tri thức. Một bộ phận sĩ đại phu mang tư tưởng "trung quân ái quốc" lui về ở ẩn, số còn lại (chiếm đa số) lựa chọn phục vụ nhà Minh để đổi lấy danh vọng và quyền lực.

Giới tinh hoa khu vực đồng bằng sông Hồng và các vùng duyên hải phía Nam (gọi chung là người Kinh lộ)[b] có xu hướng ủng hộ chính quyền nhà Minh. Ngược lại, dân cư tại các vùng trung du và miền núi cả phía Bắc lẫn phía Nam (người Trại) lại có xu hướng chống đối.[c] Theo Keith W. Taylor, sự khác biệt này bắt nguồn từ mức độ Hán hóa: người Kinh lộ chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa, cảm thấy việc hợp tác với triều đình phương Bắc mang lại lợi ích, trong khi người Trại thì không. Victor Lieberman nhận định rằng người Trại thời bấy giờ vẫn giữ lối sống tự do, ít chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhưng lại nổi bật với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ. Bên cạnh đó, giới sĩ tộc ở đồng bằng sông Hồng không chấp nhận việc Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần và rời bỏ Thăng Long để dời đô đến Thanh Hóa. Khi quân Minh tiến công, thay vì bảo vệ vùng Kinh lộ, Hồ Quý Ly lại bỏ rơi phần lớn khu vực này mà tập trung lực lượng phòng thủ tại bờ Nam sông Hồng, khiến ông hoàn toàn đánh mất lòng trung thành của dân chúng nơi đây.[37]

) đòi hỏi một lượng đáng kể gỗ tốt từ Giao Chỉ. Đây được cho là một trong những nguyên nhân chính làm dấy lên làn sóng khởi nghĩa mạnh mẽ tại đây kể từ sau năm 1417.

Sau khi nắm quyền cai trị, những quan viên đứng đầu Giao Chỉ, tiêu biểu như Hoàng Phúc và các cộng sự xuất sắc của ông, đã cố gắng xây dựng một bộ máy cai trị tối ưu hóa, thi hành nhiều chính sách nhằm ổn định tình hình và cải thiện đời sống người dân. Những chính sách này bao gồm các biện pháp về thuế khóa, cải thiện hệ thống hành chính và ổn định sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền địa phương, cùng với thái độ trịch thượng của một số quan lại người Hán – những người tự cho mình là biểu tượng của sự văn minh lễ giáo – đã làm dấy lên sự bất mãn trong dân chúng. Sự bất mãn này không chỉ giới hạn ở tầng lớp bình dân mà còn lan rộng đến cả tầng lớp sĩ phu và quý tộc cũ – nhiều trong số họ từng ủng hộ cuộc xâm lược với hy vọng rằng người Minh sẽ giữ lời hứa "phù Trần". Tuy nhiên triều đình nhà Minh lại thực hiện chính sách đồng hóa, áp đặt các giá trị văn hóa Trung Hoa và chèn ép văn hóa bản địa. Điều này khiến một số sĩ phu người Việt nhận ra rằng lời hứa "phù Trần" chỉ là một chiêu bài, và sự thất vọng nhanh chóng biến thành sự phản kháng trước hành động xâm lược văn hóa rõ rệt của nhà Minh.

Bất mãn leo thang dẫn tới sự bùng nổ của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trên khắp Giao Chỉ, nổi bật nhất là lực lượng của các vị vua nhà Hậu Trần cùng tông thất và các tướng lĩnh cũ của nhà Trần vào mùa thu năm 1407. Bất chấp sự chênh lệch buổi ban đầu, quân đội Hậu Trần bắt đầu giành chiến thắng trước quân chủ lực của Mộc Thạnh tại Bô Cô vào tháng 12 năm 1408, qua đó làm chủ toàn bộ khu vực từ Nghệ An trở vào. Tuy nhiên, nội bộ quân Hậu Trần nhanh chóng rơi vào tình trạng lục đục. Nghĩa quân mất dần thế chủ động và suy yếu trước sự tấn công mạnh mẽ từ quân Minh, dẫn tới thất bại hoàn toàn vào năm 1414.

Sau khi đánh bại nhà Hậu Trần, tình hình an ninh ở Giao Chỉ đã trở nên ổn định hơn trước. Một số khu vực vẫn tồn tại sự phản kháng, song các cuộc nổi dậy đa phần manh mún, tự phát và mang tính địa phương, nhìn chung không tạo ra sự đe dọa đáng kể nào đối với quân Minh và đều nhanh chóng tan rã. Tuy nhiên, thời kỳ yên ổn này không kéo dài lâu. Một làn sóng khởi nghĩa lớn khác lại tiếp tục bùng nổ tại Giao Chỉ kể từ năm 1417 – trùng thời điểm với việc xây dựng kinh đô mới tại Bắc Kinh và phát triển hạm đội viễn dương của Trịnh Hòa. Theo sử gia người Mỹ Edward Dreyer, việc xây cất và đóng thuyền đòi hỏi một lượng lớn nhân lực vật lực, đặc biệt là gỗ tốt, mà nguồn cung cấp từ nội địa Trung Quốc đã giảm sút. Quan lại nhà Minh, đặc biệt là hoạn quan Mã Kỳ, tăng sưu dịch, đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên khiến sự bất mãn của dân chúng và cả quan lại người Việt một lần nữa được đẩy lên cao. Sau khi Lý Bân được cử đến Giao Chỉ thay Trương Phụ vào tháng 2 năm 1417, tình hình cũng không trở nên khả quan hơn. Cuối năm đó, nhiều người Việt, bao gồm cả nhiều người từng ra làm quan cho nhà Minh, lần lượt nổi dậy chống lại chính quyền đô hộ.

Lê Lợi vốn là phụ đạo Lam Sơn, nối đời làm hào trưởng tại đây. Lam Sơn là một hương thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa, nằm trong vùng đồi núi thấp, xen lẫn với những khu rừng thưa và cánh đồng hẹp.[47] Khu vực này có lượng dân cư thưa thớt, là nơi người Kinh và người Trại cùng chung sống. Về hoạt động của Lê Lợi trong thời gian nhà Hậu Trần khởi binh chống Minh, các sử liệu sơ cấp cung cấp những thông tin trái ngược nhau. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Lợi thấy Hậu Trần không có thực lực nên không theo. Ngược lại, Việt sử tiêu án lại cho rằng Lê Lợi từng theo phò Trùng Quang Đế và làm đến chức Kim ngô Tướng quân. Dù có sự khác biệt, song các sử liệu này đều đồng quan điểm rằng Lê Lợi nuôi chí khôi phục quốc gia, nhún nhường chiêu hiền đãi sĩ, thu nạp anh hùng hào kiệt. Tán quân vụ Hoàng Phúc của nhà Minh nghe danh tiếng của Lê Lợi, bèn ban chức quan để chiêu mộ, song bị ông cự tuyệt.

Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người "tuy họ hàng quê quán khác nhau" đã tập hợp tại Lũng Nhai thuộc Lam Sơn, mở hội thề nguyện đánh quân Minh cứu nước. Trong khoảng thời gian sau đó, lần lượt có nhiều nghĩa sĩ khác gia nhập cùng Lê Lợi, tạo thành một tập thể được gọi là "tập hợp Lũng Nhai". Ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ, phần lớn những người trong "tập hợp Lũng Nhai" đều thuộc tầng lớp lao động nghèo khổ, gồm dân chài, nông dân, người làm muối, hoặc nô tỳ; bên cạnh đó, cũng không ít người là dân tộc thiểu số như Mường, Thái, Chiêm. Bấy giờ, do nhận thấy thế người Minh còn mạnh, Lê Lợi đút lót cho một số quan lại, tướng lĩnh nhà Minh để được yên ổn, có thêm thời gian để xây dựng lực lượng. Đến cuối năm 1417, lực lượng dưới trướng Lê Lợi đã có vài nghìn người.

Lương Nhữ Hốt, một viên quan người Việt phục vụ cho nhà Minh, biết rằng Lê Lợi có chí lớn nên đã báo cáo lên cấp trên. Ngay sau đó, người Minh liền bố trí do thám để theo dõi tình hình của nghĩa quân và chuẩn bị cho một cuộc tấn công phủ đầu. Trước tình hình đó, ngày 7 tháng 2 năm 1418, Lê Lợi tự xưng là Bình Định vương, cùng toàn thể nghĩa quân phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Ông cử cháu là Lê Thạch làm tướng quốc và truyền hịch đi các nơi, kêu gọi nhân dân nổi dậy chống người Minh.

Vùng đất Lam Sơn có vị trí không thuận lợi cho việc tổ chức và phát triển của nghĩa quân vì chỉ nằm cách thành Tây Đô – một trong hai tòa thành lớn nhất Giao Chỉ (tòa còn lại là Đông Quan) – khoảng 20 km về phía Tây Nam theo đường chim bay. Sau khi tiêu diệt nhà Hồ và trấn áp các cuộc khởi nghĩa từ Thanh Hoá trở vào, nhà Minh đã sử dụng thành Tây Đô làm căn cứ quân sự chính ở phía Nam, qua đó kiểm soát và khống chế một khu vực rộng lớn kéo dài từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa. Do có địa bàn kề cận một cứ điểm đóng quân quan trọng của nhà Minh, nghĩa quân Lam Sơn dễ dàng trở thành mục tiêu tấn công của lực lượng đồn trú ở đây. Chính vì vậy, trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, Lam Sơn chỉ là một lực lượng mang tính địa phương và chỉ có thể kháng cự yếu ớt trước các cuộc truy quét của quân Minh.

Ngày 13 tháng 2 năm 1418, sau khi phân tích tình hình, Lê Lợi quyết định rút lui khỏi căn cứ Lam Sơn về phía Tây để đóng quân ở Lạc Thủy[i] – một địa điểm nằm trên tuyến đường sang Lan Xang (Lào). Cùng ngày, ông cử một số thân tín sang giao thiệp với Lan Xang, yêu cầu nước này hỗ trợ lương thực, khí giới và voi ngựa. Ngày 14 tháng 2, tướng Minh là Mã Kỳ dẫn quân từ Tây Đô đuổi đánh nghĩa quân. Đoán trước hành động trên, Lê Lợi đã cho bố trí phục binh tại Lạc Thủy. Khi quân Mã Kỳ tới vào ngày 18 tháng 2, Lê Lợi sai quân mai phục đổ ra đánh, tạm thời cầm chân quân Minh. Tuy giành thắng lợi đầu tiên, nhưng trước lực lượng đông đảo của đối phương, nghĩa quân Lam Sơn buộc phải rút lui về hướng núi Chí Linh.

Theo Lam Sơn thực lục, sau thất bại ở Lạc Thủy, để trả thù và dụ hàng Lê Lợi, Mã Kỳ ra lệnh cho một người tên Ái, phụ đạo xứ Nguyệt Ấn dẫn người đào phá phần mộ nhà Lê Lợi ở xứ Phật Hoàng. Quân Minh cho treo hài cốt phụ thân Lê Lợi lên đầu thuyền nhằm ép ông ra hàng nhưng không thành.[d] Sau đó, quân Minh tiến công nghĩa quân từ chính diện, trong khi một cánh quân do viên phụ đạo tên Ái chỉ huy đi theo đường tắt đánh úp quân Lam Sơn. Bị tấn công từ hai phía, nghĩa quân chống trả yếu ớt và nhanh chóng bị đánh bại. Vợ con của Lê Lợi cũng như thân quyến của nhiều tướng sĩ lần lượt bị bắt. Trước tình thế hiểm nghèo, môt bộ phận nghĩa quân mất sĩ khí lần lượt đào ngũ, chỉ có một số người theo Lê Lợi vào Chí Linh ẩn náu. Bị quân Minh vây khốn, nghĩa quân phải cố thủ trên núi Chí Linh trong tình trạng thiếu thốn lương thực hơn 2 tháng. Chỉ tới khi quân Minh rút lui vào cuối tháng 3, Lê Lợi mới trở về và tập hợp tàn quân hơn 100 người.

Nghĩa quân Lam Sơn có khoảng thời gian hơn nửa năm để củng cố lực lượng, xây dựng chiến lũy ở Lam Sơn, vì quân Minh lúc bấy giờ còn phải phân tán nhằm đối phó với những cuộc khởi nghĩa khác, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa của Xa Khả Tham ở vùng Tây Bắc. Sau khi trấn áp những cuộc khởi nghĩa khác, Tổng binh nhà Minh là Lý Bân cử quân từ Đông Quan vào đánh Lam Sơn. Thấy Lam Sơn có vị trí không thuận lợi cho việc phòng thủ, Lê Lợi hạ lệnh rút quân xuống Mường Một. Tại đây, ông thành công phục kích một bộ phận quân Minh, buộc tàn quân phải tháo chạy về đồn Nga Lạc cố thủ. Sau 6 tháng vây hãm, sang tháng 5 năm 1419, nghĩa quân Lam Sơn thành công chiếm đồn Nga Lạc. Tuy giành thắng lợi, song Lê Lợi vẫn bí mật rút lui về núi Chí Linh do lo ngại người Minh thực hiện các hành động đáp trả.

Tháng 5 năm 1419, quân Minh tiến hành bao vây núi Chí Linh, phong tỏa toàn bộ các lối hiểm yếu. Trước tình thế hiểm nghèo, một thuộc tướng trung thành là Lê Lai tự nguyện đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Sau khi bắt được Lê Lai, quân Minh tưởng đã bắt được chủ soái Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, tạo điều kiện cho Lê Lợi cùng tàn quân chạy thoát. Sau khi quân Minh rút lui, Lê Lợi quay trở về Lam Sơn để gây dựng lại lực lượng. Được tin nghĩa quân Lam Sơn không những không tan rã mà còn đang củng cố lực lượng, Lý Bân lập tức điều quân tới trấn áp, nhưng bị rơi vào trận địa phục kích ở Mường Chính và buộc phải rút về đóng quân ở Khả Lam. Sau thắng lợi tại Mường Chính, Lê Lợi nhận được tin triều đình Lan Xang sẵn sàng hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại nhà Minh nên đã đem toàn bộ lực lượng đến Mường Thôi để hoạt động cũng như tiện tiếp xúc với người Lào.

Từ tháng 9 năm 1419, với sự giúp sức từ Lan Xang, nghĩa quân đã tiến xuống hoạt động tại vùng Lỗi Giang,[ii] đóng quân ở Ba Lãm.[iii] Cũng trong thời gian này, hàng loạt các cuộc nổi dậy vũ trang bùng nổ trên khắp lãnh thổ Giao Chỉ, nổi bật nhất là các cuộc khởi nghĩa của quân áo đỏ ở vùng Tây Bắc, Phạm Ngọc ở vùng Đông Bắc, Phan Liêu ở Nghệ An và Lộ Văn Luật ở Thạch Thất. Do một số cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn mạnh và có mối đe dọa trực tiếp hơn so với nghĩa quân Lam Sơn, Lý Bân tạm thời rời Nghệ An để quay trở về Đông Quan dẹp loạn. Lê Lợi nhân cơ hội này tiêu diệt các thủ lĩnh địa phương đối nghịch trong vùng, mở rộng địa bàn hoạt động ra các khu vực phụ cận. Sau khi trấn áp thành công các cuộc khởi nghĩa lớn, phong trào Lam Sơn nghiễm nhiên trở thành mối đe dọa lớn nhất của người Minh. Chính vì lý do đó, Lý Bân dự định cuối năm 1420 sẽ mở một cuộc tiến công mới vào Thanh Hóa nhằm tiêu diệt nghĩa quân Lam Sơn.

Tháng 11 năm 1420, Lý Bân, Phương Chính dẫn quân từ Tây Đô đánh lên vùng miền núi Thanh Hóa. Nhờ khoảng thời gian một năm gây dựng lực lượng, nghĩa quân liên tiếp giành các thắng lợi trước quân Minh tại Mường Thôi, Bồ Mộng, Bồ Thi Lang,[iv] buộc Lý Bân, Phương Chính phải rút về Tây Đô. Nhân đà thắng lợi, tháng 12 năm 1420, Lê Lợi dẫn toàn bộ binh mã xuống Lỗi Giang, lập trại tại Ba Lãm, sau đó cử Lê Sát đánh đồn Quan Du. Thắng lợi tại đây khiến thanh thế nghĩa quân Lam Sơn vang dội khắp nơi. Nhiều hào kiệt từ các vùng khác – trong đó có Nguyễn Trãi – tìm đến đại bản doanh ở Lỗi Giang để gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, do đã lựa chọn ủng hộ Lộ Văn Luật – người lúc này đang tị nạn tại triều đình Lan Xang – phía Lan Xang quyết định tuyệt giao với nghĩa quân Lam Sơn.

Mùa hè và mùa thu năm 1421, lũ lớn tàn phá khu vực đồng bằng sông Hồng gây nhiều thiệt hại về mặt kinh tế, xã hội. Vì còn phải đối phó với thiên tai, quân Minh buộc phải tạm hoãn mọi kế hoạch tác chiến. Do lâu ngày mà vẫn chưa thể thắng Lê Lợi, Lý Bân phải tìm cách tìm kiếm sự ủng hộ từ Lan Xang. Lý Bân báo về Bắc Kinh là Lê Lợi đã trốn sang Lào, vừa để tránh bị vua quở trách, vừa để gây áp lực buộc Lan Xang hỗ trợ mình. Sau khi khắc phục các hậu quả thiên tai và thành công ép Lan Xang đổi phe, Lý Bân cử Trần Trí mang quân tiến lên vùng Tây Bắc Thanh Hóa dẹp loạn. Nhằm tạo bất ngờ, nghĩa quân Lam Sơn tổ chức tập kích ban đêm vào doanh trại quân Minh ở ải Kình Lộng,[v] song vẫn không thể ngăn chặn sức tiến công mạnh mẽ của quân Minh. Lợi dụng quân số áp đảo, Trần Trí lập tức tấn công lên đèo Ống, nhưng không may rơi vào trận địa mai phục của nghĩa quân và buộc phải rút lui. Ngay sau khi quân Minh vừa rút, hoàng tử Lan Xang là Phommathat đem 3 vạn quân tiến vào biên giới. Lầm tưởng họ tới giúp, nghĩa quân Lam Sơn lơi lỏng phòng bị và đã bị đánh úp. Tuy nhiên, dù bị tập kích bất ngờ vào lúc nửa đêm, nghĩa quân vẫn kiên cường chống trả và thành công đẩy lùi quân Lan Xang.

Sau các thất bại liên tiếp, quân Minh rơi vào thế bị động. Tháng 3 năm 1422, Lý Bân mắc bệnh qua đời và được thay thế bởi Trần Trí. Do còn có nhiều vấn đề nội bộ cần giải quyết, quân Minh không có trận đụng độ đáng kể nào với nghĩa quân Lam Sơn trong suốt nửa sau của năm 1422. Phải đến tháng 2 năm 1423, quân Minh mới cùng Lan Xang phối hợp tấn công nghĩa quân, khiến Lê Lợi phải rút khỏi Lỗi Giang chạy về vùng huyện Khôi. Tuy thành công cầm chân liên quân Minh–Lan Xang, song nghĩa quân cũng hứng chịu tổn thất nặng nề. Ngoài ra, do nhận thấy huyện Khôi lẫn Lỗi Giang không còn là nơi phù hợp để làm chỗ đóng quân, Lê Lợi buộc phải rút về núi Chí Linh lần thứ ba để gầy dựng lại lực lượng. Tuy nhiên, sau hơn hai tháng ở Chí Linh, nghĩa quân lâm vào tình trạng khó khăn, phải ăn măng rừng, rau củ để sống qua ngày. Lê Lợi phải giết cả voi và ngựa chiến để nuôi quân. Trong tình thế hiểm nghèo, lòng quân dao động, thậm chí có người bỏ trốn. Chỉ khi Lê Lợi chém một viên tướng bỏ trốn, việc quân mới tạm ổn. Trong bối cảnh ấy, Lê Lợi đã chủ trương giảng hòa với quân Minh, tranh thủ thời gian để xoay chuyển tình thế.

Đầu tháng 5 năm 1423, để thực hiện kế sách hòa hoãn, Lê Lợi cử sứ giả đem lễ vật gồm 5 đôi ngà voi cùng thư xin hàng đến thương lượng với quân Minh. Mối đe dọa từ các bộ lạc Mông Cổ đang manh nha ở biên giới phía Bắc không cho phép người Minh mở rộng chiến sự ở phía Nam, vì vậy họ đã nhanh chóng chấp thuận đề nghị của Lê Lợi. Trong khoảng thời gian sau đó, ông lại thường xuyên dùng vàng, bạc để tặng các chỉ huy nhà Minh như Trần Trí, Sơn Thọ. Đáp lại, họ cũng đem nhiều cá, muối, thóc giống và nông cụ tặng nghĩa quân. Trong thời gian này, hoạt động luyện tập binh sĩ, chế tạo vũ khí, chuẩn bị lương thực được nghĩa quân tiến hành trong bí mật. Sau khi sự việc bị người Minh phát giác, Lê Lợi cử người mang quà đến biếu để trấn an đối phương. Tuy nhiên, sứ giả của nghĩa quân đã bị Trần Trí và Sơn Thọ bắt giam ngay sau đó. Trước tình hình trên, Lê Lợi quyết định đình chỉ việc giảng hòa.

Ngày 12 tháng 8 năm 1424, Minh Thành Tổ qua đời. Cái chết của ông được xem là một sự kiện bước ngoặt, dẫn đến "sự thay đổi 180 độ" trong chính sách An Nam của Minh triều. Khi còn sống, Minh Thành Tổ với tham vọng biến An Nam thành quận huyện tương tự như các khu vực nội địa Trung Quốc, đã thực hiện nhiều biện pháp cứng rắn nhằm răn đe và kiểm soát người bản địa. Mọi cuộc bạo động hay nổi loạn của người dân địa phương đều bị triều đình nhanh chóng đàn áp bằng vũ lực. Khi Minh Nhân Tông lên ngôi, ông nhận ra sự khó khăn trong việc duy trì sự kiểm soát hoàn toàn An Nam, đặc biệt là khi tình hình tài chính của nhà Minh gặp khó khăn và các lực lượng nổi dậy tại đây ngày càng trở nên mạnh mẽ. Để giảm gánh nặng cho triều đình, Minh Nhân Tông đã ban hành chính sách ân xá, hủy bỏ việc cống nạp, giảm nhẹ thuế má cho người dân Giao Chỉ. Những thay đổi này tạo ra cơ hội cho các phong trào khởi nghĩa, có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn.

“ ...Những việc ở Giao Chỉ như khai thác vàng bạc và tìm kiếm hương liệu các thứ, đều đình chỉ hết. Các quan viên trong ngoài sai đi trông coi, hạn trong 10 ngày phải lên đường về kinh, không được kiếm cớ ở chậm lại mà ngược hại nhân dân. Ôi! vua tôi cùng một dạ, thương dân cốt ở khoan hồng, thưởng phạt có phép thường, trị nước trước phải minh tín. Những mong các hiền tài giúp việc văn võ, các quan chức giỏi giang trong ngoài hết lòng trung trinh, giúp chỗ thiếu sót để nối nghiệp lớn. Cho nền quốc gia hưng thịnh mãi mãi, để ban ân huệ tới khắp dân đen, để mở rộng phúc trị bình cho mọi nơi trong cõi... ”

Là một hoàng đế "trọng văn", Minh Nhân Tông ngay sau khi lên ngôi đã từ bỏ nhiều chính sách quân phiệt có từ thời vua cha. Tháng 8 năm 1424, ông cho triệu Công bộ thượng thư Hoàng Phúc về Bắc Kinh và cử Binh bộ thượng thư Trần Hiệp thay thế nắm việc hai ty Bố chính và Án sát ở Giao Chỉ. Một số nhà sử học cho rằng việc cách chức một viên quan giàu kinh nghiệm và được kính trọng như Hoàng Phúc là một sai lầm nghiêm trọng, vì người kế nhiệm ông đã không thể hoàn thành tốt vai trò của mình, gặp khó khăn về nguồn cung và thiếu hiểu biết về điều kiện địa phương. Do nhà Minh lúc bấy giờ còn phải đối mặt với cuộc chiến dai dẳng với Bắc Nguyên và những khó khăn do chiến tranh gây ra, Minh Nhân Tông vẫn chủ trương giải quyết tình hình Giao Chỉ bằng biện pháp mềm dẻo. Vì vậy, khi Trần Trí dâng biểu nêu rõ hành động "tráo trở" của Lê Lợi, Minh Nhân Tông vẫn lệnh cho các tướng phải "khéo vỗ về chiêu dụ".

Căn cứ Chí Linh – Lam Sơn nằm ở vị trí lưỡng đầu thọ địch, dễ bị quân Minh từ Đông Quan và Tây Đô đánh kẹp lại. Trước tình hình bố trí lực lượng của đối phương, Lê Lợi và các tướng lĩnh quyết định theo đuổi phương châm "tránh mạnh đánh yếu, bỏ chỗ vững đánh chỗ núng, tránh chỗ thực đánh chỗ hư". Trong một cuộc họp quan trọng vào cuối năm 1424, Lê Lợi chấp thuận kế sách của Nguyễn Chích là tấn công vào Nghệ An – một quyết định quan trọng làm thay đổi hoàn toàn cục diện của cuộc chiến. Theo phân tích của Nguyễn Chích, khu vực phía Nam phủ Thanh Hóa, từ Diễn Châu vào Thuận Hóa, là những nơi quân Minh bố trí lực lượng tương đối mỏng, do những vùng đất này nằm xa các căn cứ chính ở Đông Quan và Tây Đô. Ngoài ra, cũng theo Nguyễn Chích – người từng có nhiều năm hoạt động tại Nghệ An – thì vùng đất này đất rộng người đông, có thể xây dựng thành hậu phương vững chắc làm bàn đạp đánh ra nhưng nơi khác.

Ngày 12 tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến hành tập kích đồn Đa Căng.[vi] Trước cuộc tấn công bất ngờ, binh lính trấn thủ đồn không kịp trở tay và nhanh chóng bị tiêu diệt. Sau khi nhận được tin cấp báo, một cánh quân nhà Minh ở gần nhanh chóng tới cứu viện nhưng cũng bị đánh bại bên ngoài đồn Đa Căng. Thắng lợi này không chỉ giúp sĩ khí của nghĩa quân lên cao mà còn được nhân dân trong vùng nhiệt liệt hưởng ứng, số lượng người gia nhập nghĩa quân rất đông. Ngay lập tức, các tướng nhà Minh ở Thanh Hóa là Trần Trí, Phương Chính, Thái Phúc lệnh cho các cánh quân ở Nghệ An, Trà Lân, Quỳ Châu cùng phối hợp tấn công gọng kìm nghĩa quân. Biết được kế hoạch của người Minh, Lê Lợi quyết định đánh chặn từng đạo quân một. Đầu tiên, ông tiến hành phục kích ở Bồ Đằng, thành công cầm chân lực lượng của Trần Trí, Phương Chính. Ngay ngày hôm sau, nghĩa quân Lam Sơn tấn công bất ngờ trang Trịnh Sơn[vii] thuộc châu Trà Lân, thành công bẻ gãy thế gọng kìm của quân Minh. Lực lượng Trần Trí, Phương Chính đuổi theo nghĩa quân, nhưng khi nhận thấy kế hoạch đã đổ vỡ, họ bèn rút quân về cố thủ tại Nghệ An theo đường Quỳ Châu qua Diễn Châu.

Khoảng tháng 12 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn áp sát thành Trà Lân.[e] Nằm trong vùng dân tộc thiểu số, đây là một tòa thành kiên cố, được trấn giữ bởi một viên tướng người Việt là Cầm Bành. Lê Lợi sai người chiêu hàng Cầm Bành, song bị cự tuyệt. Thấy đối phương có ý cố thủ chờ viện binh, Lê Lợi một mặt vây thành, một mặt tiến hành đánh chiếm các khu vực xung quanh thuộc châu Trà Lân, thực hiện các chính sách thu phục nhân tâm. Trong lúc các tướng nhà Minh ở Nghệ An đang phân vân liệu có nên đưa quân giải vây thành Trà Lân, thì Sơn Thọ từ Bắc Kinh quay trở về Giao Chỉ. Trong thời gian về triều, Sơn Thọ khẳng định với Minh Nhân Tông rằng Lê Lợi có thể dụ hàng được. Vua Minh chấp thuận, lệnh cho Sơn Thọ mang sắc phong Lê Lợi làm tri phủ Thanh Hóa. Do đó, khi quay trở lại Giao Chỉ, Sơn Thọ chủ trương sử dụng biện pháp ngoại giao thay vì đưa quân tới cứu thành Trà Lân. Kế sách này được các tướng lĩnh như Trần Trí ủng hộ.

Thành Trà Lân lúc bấy giờ đã bị vây hơn một tháng. Để nhanh chóng giải vây cho Cầm Bành, Sơn Thọ quyết định gửi thư chiêu hàng và chủ động trao trả tù binh. Lê Lợi tương kế tựu kế, bên ngoài giả vờ nhận sắc phong, một mặt yêu cầu Sơn Thọ lệnh Cầm Bành ngừng chiến đấu, thì mới có thể tiến hành hòa giải. Sơn Thọ đồng ý yêu cầu của Lê Lợi, bèn lệnh cho quan quân trong thành Trà Lân ngừng chiến. Về phía Cầm Bành, trong tình thế hiểm nghèo sau khi bị bao vây nhiều tháng trời mà không có chi viện, ông tuyệt vọng mở cửa ra hàng nghĩa quân Lam Sơn. Sau khi tiến vào thành Trà Lân, Lê Lợi tiến hành chiêu an và tha tội cho những người trong thành. Việc chiếm được thành Trà Lân giúp thanh thế nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. Các thủ lĩnh chống Minh như Phan Liêu, Lộ Văn Luật vốn tị nạn ở Lan Xang cũng lần lượt về nước xin gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, nhiều tù trưởng người Lào ở vùng biên cũng tuyên bố ủng hộ nghĩa quân về nhiều mặt.

Sau khi thấy nghĩa quân Lam Sơn chiếm giữ thành Trà Lân, thu phục Cầm Bành, các tướng nhà Minh ở Nghệ An biết kế hoạch chiêu hàng Lê Lợi đã đổ vỡ, song vẫn kiên quyết theo đuổi chính sách này. Lê Lợi lấy cớ mình có tư thù với Lương Nhữ Hốt, nhưng người này lúc này vẫn còn ở Thanh Hóa, nên xin được cải bổ làm tri phủ Trà Lân. Sơn Thọ, Trần Trí biết không thể dùng biện pháp ngoại giao để đối phó với Lê Lợi, song vẫn lưỡng lự không quyết vì sợ làm trái lệnh vua, còn nếu động binh thì cũng không nắm chắc phần thắng. Tuy nhiên, trong thời gian này, Binh bộ thượng thư Trần Hiệp – nhận định được mối đe dọa nghiêm trọng từ quân Lam Sơn – đã mật tấu về Bắc Kinh việc "Lợi tuy xin hàng nhưng vẫn làm phản [...] xin hạ lệnh tiêu diệt gấp". Sau khi nhận được báo cáo, triều đình nhà Minh liền hạ lệnh cho các tướng phải lập tức dẹp loạn. Sơn Thọ, Trần Trí được lệnh, liền chấm dứt việc qua lại với Lê Lợi và chuẩn bị mở một cuộc phản công lên Trà Lân.

Từ thành Nghệ An lên Trà Lân có hai đường: đường thứ nhất dọc theo sông Lam, đường thứ hai là đường thượng đạo đi qua Đỗ Gia.[viii] Để ngăn chặn khả năng bị đánh gọng kìm nếu quân Minh chia quân đi theo cả hai đường, Lê Lợi cử Đinh Liệt đem hơn 1.000 quân đóng ở Đỗ Gia, tức khu vực núi Linh Cảm ở ngã ba sông Ngàn Phố và sông Ngàn Sâu, qua đó khống chế tuyến đường thượng đạo từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa. Việc đóng quân tại đây giúp quân Lam Sơn có thể ngăn chặn quân Minh đi đường núi từ Nghệ An lên Trà Lân, đồng thời cũng phòng ngừa viện binh đối phương từ Tân Bình, Thuận Hóa. Sau khi Đinh Liễn xuất phát, Lê Lợi cũng dẫn đại quân Lam Sơn từ Trà Lân xuống đóng tại ải Khả Lưu[ix] ở tả ngạn sông Lam.

Do đường thượng đạo đã bị Đinh Liệt chiếm giữ, Trần Trí, Phương Chính huy động quân chủ lực cả thủy lẫn bộ đi dọc theo sông Lam tiến lên Khả Lưu và hạ trại ở bờ Nam sông, đối diện quân Lam Sơn. Sở hữu lực lượng áp đảo, quân Minh dự định ngày hôm sau sẽ tấn công. Quân Lam Sơn một mặt giả vờ án binh bất động, nhưng bí mật cử một đạo quân nhỏ vượt sông bố trí trận địa mai phục. Sáng sớm ngày hôm sau, quân Minh phát động tấn công. Quân Lam Sơn giả thua, dụ quân Minh vào trận địa phục kích. Quân Minh thua lớn, phải rút về xây đồn đắp lũy ở mạn Nam sông Lam, cố thủ tại đây nhằm ngăn chặn quân Lam Sơn tiến đánh thành Nghệ An. Do chỉ còn ít lương thực, Lê Lợi cho đốt trại và giả vờ rút lui về Trà Lân, mục đích dụ quân Minh rời khỏi vị trí. Nghĩa quân đi đường tắt bố trí mai phục ở Bồ Ải.[x] Cho rằng nghĩa quân rút lui vì hết lương, quân Minh đuổi theo đóng quân tại doanh trại quân Lam Sơn cũ ở Khả Lưu, lên kế hoạch cố thủ lâu dài. Ngày hôm sau, Lê Lợi sai người tới khiêu chiến, dụ quân Minh đuổi theo. Quân Minh trúng kế, bị nghĩa quân Lam Sơn từ các phía xông ra đánh bại, nhiều tướng lĩnh bị giết hoặc bị bắt. Chịu tổn thất lớn, Trần Trí buộc phải rút tàn quân về thành Nghệ An cố thủ.

Sau khi rút quân từ chiến trường Khả Lưu, Bồ Ải về thành Nghệ An, Trần Trí quyết định cố thủ, không nghênh chiến. Vận dụng kinh nghiệm có được trong chiến dịch đánh thành Trà Lân, Lê Lợi một mặt cho vây thành, một mặt phái quân đi đánh các căn cứ lẻ tẻ nằm rải rác trên toàn phủ Nghệ An. Mục tiêu của ông là mở rộng hậu phương, cô lập lực lượng của Trần Trí và đề phòng viện binh từ các nơi khác đến. Trên núi Thiên Nhẫn ở đối diện thành Nghệ An, Lê Lợi cho xây dựng thành lũy, doanh trại mới làm nơi đóng quân. Từ trên đỉnh núi, nghĩa quân có thể quan sát và nắm bắt nhất cử nhất động của quân Minh bên trong thành. Cùng lúc đó, nghĩa quân Lam Sơn thành công thu phục cả 20 châu huyện thuộc phủ Nghệ An, qua đó làm chủ khu vực tương đương tỉnh Hà Tĩnh và phía Nam Nghệ An ngày nay. Trước uy thế ngày một gia tăng của Lê Lợi, nhiều tù trưởng ở vùng miền núi phía Tây Nghệ An và quan lại địa phương đều lần lượt quy thuận và gia nhập nghĩa quân.

Ngày 2 tháng 5 năm 1425, trước những diễn biến bất lợi ở Nghệ An, tướng trấn thủ Đông Quan là Lý An đem đại đội thủy quân theo đường biển tiến vào cứu viện. Ngày 14 tháng 2, khi viện binh đến nơi, Trần Trí mang hết quân trong thành ra ngoài để phối hợp tấn công quân Lam Sơn, dự định đi ngược dòng sông La tiến đánh căn cứ ở Đỗ Gia và dùng nơi này làm bàn đạp đánh lên đại bản doanh của nghĩa quân trên núi Thiên Nhẫn. Tuy nhiên, khi tiến đến cửa sông Khuất, quân Minh bất ngờ lọt vào trận địa mai phục của nghĩa quân và bị đánh bại, phải rút chạy về Nghệ An. Trần Trí quyết định để Phương Chính, Lý An ở lại giữ thành, còn mình rút theo đường biển về Đông Quan củng cố lại lực lượng, chuẩn bị cho cuộc phản công mới. Lệ Lợi lệnh Nguyễn Trãi viết thư khiêu khích, song Phương Chính vẫn quyết giữ vững vị trí, không ra khỏi thành nghênh chiến.

Sau khi làm chủ phía Nam Nghệ An, các tướng lĩnh Lam Sơn quyết định tiến đánh vùng Diễn Châu và Thanh Hóa. Do phần lớn binh lính đã được Trần Trí, Phương Chính kéo vào Nghệ An từ trước, lực lượng nhà Minh ở thành Tây Đô lúc bấy giờ đã mỏng hơn rất nhiều. Tháng 6 năm 1425, Đinh Lễ được lệnh đem quân đi chiêu dụ các vùng nông thôn ở phía Bắc Nghệ An và Thanh Hóa. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông cho dựng thành Động Đình nằm cách Diễn Châu khoảng 10 km để chuẩn bị cho một cuộc bao vây. Tướng trấn thủ Diễn Châu là Thôi Tụ biết tin, bèn đóng cửa cố thủ trong thành. Để giúp thành Diễn Châu có thể cầm cự lâu dài, Trần Trí sai người đưa thuyền lương vào tiếp tế. Biết được quân trong thành sẽ phải rời thành lấy lương, Đinh Lễ tiến hành phục kích, thành công chiếm được nhiều thuyền bè, lương thực của đối phương. Quân Minh tan vỡ, một phần chạy ra Tây Đô, số còn lại rút vào thành Diễn Châu tiếp tục cố thủ.

Trên đà thắng lợi, Đinh Lễ để một bộ phận binh lính ở lại vây thành Diễn Châu, còn ông mang theo đại quân truy đuổi quân Minh ra thành Tây Đô. Được tin chiến thắng ở Diễn Châu, Lê Lợi lập tức cử Lý Triện, Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Bùi Bị dẫn 2.000 quân và 2 thớt voi ra Thanh Hóa hỗ trợ Đinh Lễ. Bị tấn công bất ngờ, quân Minh ở Tây Đô không chống cự nổi, phải đóng cửa thành cố thủ. Không chủ trương bao vây thành, nghĩa quân chỉ để lại một bộ phận nhỏ ở lại trước thành, số còn lại thì được chia ra đi thu phục các châu huyện. Được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ dân chúng, quân Lam Sơn nhanh chóng làm chủ toàn bộ phủ Thanh Hóa. Quyền lực của nhà Minh tại các vùng nông thôn sụp đổ hoàn toàn. Quân Minh chỉ còn kiểm soát thành Tây Đô, bị cô lập và không thể liên lạc với Đông Quan hay các thành trì khác.

Tháng 7 năm 1425, chỉ 1 năm sau khi Minh Thành Tổ qua đời, nghĩa quân Lam Sơn đã làm chủ ba phủ Thanh Hóa, Diễn Châu và Nghệ An. Với việc mất quyền kiểm soát các vùng đất này, quân Minh ở Tân Bình và Thuận Hóa vốn đã mỏng, nay lại bị cô lập, mất hẳn liên lạc với những thành trì khác. Tháng 8 năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn chia làm hai cánh: Cánh thứ nhất do Trần Nguyên Hãn cùng 1.000 quân và 1 thớt voi, đi theo đường thượng đạo tiến vào Nam; Cánh còn lại do Lê Ngân chỉ huy, gồm 70 thuyền chiến theo đường biển tiến vào. Trần Nguyên Hãn đến sông Gianh thì đụng độ với quân Minh do Nhâm Năng chỉ huy. Nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục áp dụng lối đánh du kích, thành công tiêu diệt cánh quân Minh này.

Cũng áp dụng kế sách tương tự như các lần trước, quân Lam Sơn một mặt tiến hành vây thành Tân Bình, Thuận Hóa, một mặt phân tản đi bình định châu huyện xung quanh. Chỉ sau ít ngày, toàn bộ đất đai ở Tân Bình, Thuận Hóa đều đã rơi vào tay nghĩa quân. Trước thanh thế vang dội của nghĩa quân, số lượng người tòng quân ngày càng nhiều. Sau khi thiết lập lại bộ máy chính quyền mới và xây dựng một lực lượng vũ trang địa phương để tiếp tục vây thành, Trần Nguyên Hãn và các tướng rút quân trở về Nghệ An, chuẩn bị cho những chiến dịch mới sắp tới.

Chỉ trong vòng 10 tháng kể từ khi chuyển hướng chiến lược vào Nam, cả một vùng đất rộng lớn từ Thanh Hóa vào tới Thuận Hóa đều rơi vào tay quân Lam Sơn, ngoại trừ một số khu vực đơn lẻ như thành trì vẫn được quân Minh cố thủ, nằm chơ vơ như "những hòn đảo giữa biển cả". Tương quan lực lượng giữa giữa hai bên đã có những biến đổi, khi lực lượng nhà Minh còn lại ở Giao Chỉ không còn đủ sức để uy hiếp phong trào Lam Sơn về mặt quân sự. Cũng trong thời gian này, nhiều phong trào khởi nghĩa ở miền Bắc Giao Chỉ lần lượt khởi phát. Ngoài các cuộc nổi dậy của người Việt, phong trào Quân Áo Đỏ của người miền núi cũng phát triển mạnh ở vùng Tây Bắc, thậm chí còn lan cả sang Vân Nam. Trần Trí cùng thổ quan Đèo Cát Hãn nhiều lần tiến lên vùng Tây Bắc đánh quân Áo đỏ, nhưng đều thất bại.

Sức mạnh của quân Minh ở Giao Chỉ lúc bấy giờ đã suy yếu trầm trọng. Trần Trí buộc phải giam chân trong thành chờ viện binh. Quân Minh không thể tiến hành các chiến dịch quân sự nào để tiễu trừ các lực lượng chống đối nhỏ lẻ ở miền Bắc, càng không thể tiến hành giải vây các thành trì phía Nam. Nhận thấy thời cơ đã chín muồi, Lê Lợi quyết định chuyển hướng tiến quân ra miền Bắc. Cũng trong thời điểm đó, Minh Tuyên Tông triệu tập bá quan để bàn bạc về ý định chấm dứt chiến sự tại Giao Chỉ. Tuy nhiên, trong triều nảy sinh hai luồng ý kiến trái ngược: phe Kiển Nghĩa và Hạ Nguyên Cát chủ trương tiếp tục động binh, trong khi phe Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh ủng hộ quyết định của hoàng đế. Lúc bấy giờ, Tuyên Tông – tạm thời bị thuyết phục bởi phe chủ chiến – đã quyết định tăng cường lực lượng tại Giao Chỉ. Ngày 20 tháng 4 năm 1426, ông cử hai đạo viện binh sang để hỗ trợ Trần Trí: một đạo do Vương An Lão chỉ huy tiến theo đường Vân Nam, một đạo do Vương Thông chỉ huy tiến theo đường Quảng Tây. Tuy nhiên, lực lượng này cần tới 6 tháng để tập hợp và đến Đông Quan. Được tin viện binh đối phương sắp sang, nghĩa quân Lam Sơn lên kế hoạch tiến quân ra Bắc.

Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh tiến ra Bắc. Cánh quân thứ nhất do Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả và Đỗ Bí chỉ huy gồm 3.000 quân, 1 thớt voi chiến men theo đường Thiên Quan đến Tuyên Quang.[xi] Cánh này có nhiệm vụ uy hiếp thành Đông Quan từ phía Tây, đồng thời chặn viện binh đối phương từ Vân Nam. Cánh thứ hai gồm 4.000 quân và 2 thớt voi chiến do Lưu Nhân Chú và Bùi Bị chỉ huy ra Thiên Trường, Kiến Xương chiếm cửa sông Hồng để ngăn quân Minh rút từ Nghệ An về theo đường thủy rồi sau tiến lên Khoái Châu, Bắc Giang, Lạng Giang để chặn viện binh từ Quảng Tây tới. Cánh thứ ba gồm 2.000 quân do Đinh Lễ, Nguyễn Xí tiến sau để "phô trương thanh thế". Nhờ dân chúng nhiệt thành giúp sức, quân Lam Sơn dù có quân số tương đối nhỏ vẫn hoạt động được rộng khắp vùng đồng bằng, trung và thượng du phía Bắc Việt Nam.

Ngày 12 tháng 10, cánh quân Phạm Văn Xảo và Lý Triện áp sát thành Đông Quan từ phía Tây Nam. Cho rằng quân Lam Sơn mới từ xa tới, quân Minh xuất thành, tiến hành phản công ở Ninh Kiều,[xii] song bị đẩy lui, chịu tổn thất tới hơn 2.000 người. Sau thắng lợi này, cánh quân Lam Sơn này chia làm hai, Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đi ngược sông Hồng lên Tam Đới để cắt đứt đường viện binh của quân Minh từ Vân Nam, trong khi Lý Triện, Đỗ Bí cùng số binh lính còn lại đóng ở phía Tây sông Đáy. Hoạt động của cánh quân Lưu Nhân Chú và Bùi Bị không được sử sách ghi chép lại, song nhiệm vụ của họ có thể đã thất bại khi hai tướng Minh là Lý An, Phương Chính đã từ Nghệ An vượt biển rút về Đông Quan thành công. Ngày 20 tháng 10, cánh quân do Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả chỉ huy đánh bại 10.000 viện binh quân Minh dưới trướng Vương An Lão từ Vân Nam. Quân Minh tổn thất hơn nghìn người, chết đuối rất nhiều, số còn lại tháo chạy vào thành Tam Giang cố thủ. Cùng ngày, Lý Triện cũng đánh bại một đợt xuất kích của quân Minh tại Nhân Mục.

Ngày 31 tháng 10 năm 1426, Vương Thông tiến vào thành Đông Quan, tiếp nhận quyền chỉ huy toàn bộ lực lượng Đại Minh ở Giao Chỉ. Các tướng bại trận như Trần Trí, Phương Chính bị triều đình nhà Minh cách chức và được cho phép lập công chuộc tội. Với sự có mặt của viện binh do Vương Thông mang sang cũng như quân của Phương Chính từ Nghệ An rút về, sức mạnh quân đội nhà Minh tại Đông Quan đã nhanh chóng được tăng cường. Ngày 5 tháng 11, sau khi dành vài ngày chấn chỉnh và phiên chế lại quân đội, nghiên cứu đường đi nước bước của quân Lam Sơn, Vương Thông quyết định mở một cuộc phản công nhằm xoay chuyển tình thế. Ông chia quân làm 3 đạo xuất phát, mỗi đạo cách nhau khoảng từ 10 đến 15 km theo đường chim bay. Đích thân Vương Thông dẫn một đạo từ thành Đông Quan theo cầu Tây Dương (Cầu Giấy) tiến binh ra Cổ Sở;[xiii] Phương Chính theo cầu Yên Quyết tiến ra Sa Đôi;[xiv] Mã Kỳ và Sơn Thọ theo cầu Nhân Mục[xv] tiến ra Thanh Oai.

Về phía quân Lam Sơn, Lý Triện và Đỗ Bí bấy giờ đóng về phía Nam, gần cánh Mã Kỳ nhất. Sau khi mai phục sẵn tại đồng Cổ Lãm, quân Lam Sơn tung một lực lượng nhỏ ra khiêu chiến rồi giả vờ rút lui để dụ đối phương. Hăm hở truy đuổi, quân Minh tiến thẳng vào trận địa mai phục ở khu vực ruộng nước tại Tam La.[xvi] Nhân lúc quân Minh bị mắc kẹt trong bùn lầy, quân Lam Sơn mai phục lập tức xông ra đánh thọc sườn. Bị mắc kẹt, quân Minh mất khả năng chống đỡ, chỉ còn cách cố gắng tháo chạy theo đường cũ và bị đuổi đánh đến tận cầu Nhân Mục. Thất bại ở Tam La khiến kế hoạch ba mũi tiến công của quân Minh phá sản, buộc Vương Thông phải thay đổi kế hoạch tác chiến và không còn khinh địch như trước. Ngày 6 tháng 11 năm 1426, cánh quân của Lý Triện, Đỗ Bí tiến hành tập kích doanh trại ngoại vi của quân Minh ở bến Cổ Sở. Tuy nhiên, do đề phòng từ trước, Vương Thông bố trí sẵn quân mai phục, đánh bại cuộc tập kích của quân Lam Sơn. Cuộc tập kích thất bại, Lý Triện, Đỗ Bí buộc phải tháo chạy về giữ nơi hiểm yếu.

Nhân đà thắng lợi, Vương Thông dự định lợi dụng sự áp đảo về mặt quân số để phát động tấn công vào tổng hành dinh quân Lam Sơn ở Ninh Kiều. Tuy nhiên, khi đuổi đến nơi, ông mới phát hiện rằng quân Lam Sơn đã rời đi. Không nắm bắt được hành tung của quân Lam Sơn, quân Minh đang trong thế chủ động tấn công bị đặt vào thế bị động. Trước tình hình trên, Trần Hiệp cùng nhiều người khác quan sát thấy địa thế hiểm trở, đề nghị cho trinh sát đi dò xét trước. Vương Thông, tự tin vì nắm trong tay binh lực áp đảo đối phương, vẫn hạ quyết tâm truy đuổi quân Lam Sơn. Ông chia lực lượng làm hai đạo chính binh và kỳ binh. Đích thân Vương Thông chỉ huy chính binh sẽ vượt sông Đáy tại Ninh Kiều để tiến thẳng tới Cao Bộ.[xvii] Đạo kỳ binh bao gồm kỵ binh và pháo binh cũng bí mật vượt sông Đáy, đi đường vòng qua Tốt Động, Yên Duyệt và từ phía sau nổ pháo nhằm đánh lạc hướng quân Lam Sơn. Đạo chính binh sau khi nghe pháo hiệu sẽ cùng đạo kỳ binh từ hai mặt giáp công.

Sáng ngày 7 tháng 11 năm 1426, quân Minh chia ra tiến đánh doanh trại quân Lam Sơn từ hai hướng. Dựa trên thông tin tình báo, phía Lam Sơn đã nắm bắt được kế hoạch trên. Khi đạo chính binh do Vương Thông chỉ huy đến Tốt Động, quân Lam Sơn chủ động bắn pháo để nhử đối phương vào bẫy. Nghe tiếng pháo nổ, quân Minh lầm tưởng đây là pháo hiệu của đạo kỳ binh. Ngoài ra, do không thấy bất kỳ động tĩnh gì – vì binh sĩ Lam Sơn được lệnh nghe tiếng pháo vẫn nằm im – Vương Thông cho rằng xung quanh không có địch và hạ lệnh tiếp tục tiến công. Tiền quân quân Minh lọt giữa trận địa mai phục ở Tốt Động, quân Lam Sơn ở các vị trí đồng loạt xông ra tấn công từ nhiều hướng. Bị tấn công bất ngờ trong điều kiện thời tiết và địa hình bất lợi, các đơn vị nhà Minh sa lầy, mất khả năng chiến đấu. Tại Chúc Động, hậu quân Vương Thông lúc bấy giờ vừa mới vượt sông Đáy thì bị phục binh tấn công và bị tiêu diệt. Đạo kỳ binh quân Minh – vốn có nhiệm vụ đi đường tắt đến Cao Bộ để nổ pháo đánh lạc hướng – vội vàng rút lui về Đông Quan trong hỗn loạn sau khi nhận được tin quân chủ lực bị tiêu diệt.

Toàn bộ quân Minh rút lui qua đường Chúc Động đều bị nghĩa quân Lam Sơn chặn đánh quyết liệt. Trần Hiệp tử trận, bản thân Vương Thông bị thương nặng, cùng Mã Kỳ mở được đường máu qua Ninh Kiều chạy về Đông Quan. Một bộ phận tàn quân theo Phương Chính tháo chạy lên bến Cổ Sở và về được Đông Quan. Sau trận chiến, quân Lam Sơn thu thập được vô số ngựa, quân tư, khí giới và xe cộ. Ngược lại, do tổn thất về mặt khí tài quá lớn, Vương Thông buộc phải phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh – hai trong số bốn An Nam tứ đại khí – để làm đạn dược và vũ khí. Bên cạnh những khí giới thu thập được, hàng binh và tù binh giúp quân Lam Sơn tiếp thu thêm công nghệ quân sự của người Minh. Theo thời gian, khoảng cách về mặt công nghệ giữa hai bên dần thu hẹp. Bằng cách sử dụng công nghệ của người Minh để chống lại chính họ, các loại vũ khí thu thập hoặc chế tạo mới đã góp phần không nhỏ vào các chiến thắng tương lai của quân Lam Sơn. Với những tổn thất nặng nề của quân Minh trong trận Tốt Động – Chúc Động, tình thế cuộc chiến ngày càng nghiêng về phía có lợi cho nghĩa quân Lam Sơn.

Sau khi nhận được tin thắng lợi ở Tốt Động – Chúc Động, Lê Lợi lúc bấy giờ vẫn còn ở Thanh Hóa liền dẫn đại quân ra Bắc để trực tiếp chỉ huy chiến dịch đánh Đông Quan. Đêm ngày 22 tháng 11 năm 1426, lực lượng thủy quân Lam Sơn của Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị ở phía Đông và bộ binh của Đinh Lễ từ phía Tây phối hợp tấn công, phóng hỏa các doanh trại quân Minh bên ngoài thành Đông Quan. Quân của Phương Chính làm nhiệm vụ giữ các căn cứ ngoại vi bị tấn công bất ngờ, buộc phải tháo chạy vào bên trong thành. Quân Lam Sơn thu được nhiều thuyền bè cùng vũ khí do quân Minh để lại. Sau khi để mất các doanh trại cũng như các vùng nông thôn rộng lớn bên ngoài thành Đông Quan, Vương Thông chỉ còn cách thúc thủ trong thành, trông chờ viện binh sang cứu.

Trong tình trạng bị vây hãm nghiêm ngặt, quân Minh trong thành Đông Quan đối diện với tình huống "tứ diện Sở ca". Việc mất liên lạc với bên ngoài khiến Vương Thông không thể điều động được quân các thành khác – vốn cũng đang trong tình cảnh tương tự như Đông Quan – về ứng cứu, cũng như không thể cầu viện triều đình. Về phía quân Lam Sơn, tuy đã giành thế thượng phong, song lúc bấy giờ vẫn chưa đủ sức công thành Đông Quan vốn rất kiên cố. Lê Lợi một mặt cho quân tiếp tục vây hãm, một mặt cho Nguyễn Trãi viết thư chiêu hàng Vương Thông. Trong tình thế hiểm nghèo, Vương Thông viện cớ tìm lại Bình An Nam chiếu của Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, ra điều kiện rằng ông sẽ rút quân nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua. Trước yêu sách trên, Lê Lợi lập Trần Cảo – một người được cho là cháu nội của Trần Nghệ Tông – làm vua. Sau khi Lê Lợi làm theo yêu cầu, tiến trình nghị hòa giữa hai bên đã được bắt đầu. Vương Thông cũng được phía Lam Sơn ra điều kiện phải hạ lệnh cho quân đội các nơi giao trả thành, rút về Đông Quan. Theo mệnh lệnh từ cấp trên, ngoại trừ Thanh Hóa, quân Minh đóng tại các thành trì còn lại ở Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa đều lần lượt mở cửa ra hàng quân Lam Sơn.

Chủ ý cầu hòa của Vương Thông gặp phải sự phản ứng dữ dội từ phái chủ chiến, dẫn đầu là Phương Chính, Mã Kỳ – những người từng có nhiều năm phục vụ trên đất Giao Chỉ – và những quan lại người Việt như Trần Phong và Lương Nhữ Hốt. Trong lúc Vương Thông đang lưỡng lự thì Minh Tuyên Tông một lần nữa cử một đạo binh lớn sang Giao Chỉ do Liễu Thăng chỉ huy. Cho rằng tình thế hiện tại đã thay đổi, Vương Thông quyết định từ bỏ chủ trương nghị hòa. Ông cho gia cố thành Đông Quan, phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh – hai trong số bốn An Nam tứ đại khí – để làm đạn dược và vũ khí nhằm chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.

Ngày 23 tháng 1 năm 1427, trong nỗ lực cứu vãn tình thế ở Giao Chỉ, Minh Tuyên Tông xuống chiếu lệnh Liễu Thăng và Mộc Thạnh dẫn 70.000 quân sang giải nguy cho Vương Thông. Tháng 4 cùng năm, vua Minh lại cử thêm 45.200 quân sang Giao Chỉ. Như vậy, lực lượng cứu viện của Liễu Thăng, Mộc Thạnh có tổng cộng 115.200 người. Quân Minh chia thành hai cánh tiến vào Giao Chỉ, trong đó cánh quân chính do Liễu Thăng chỉ huy tiến theo đường Quảng Tây, Mộc Thạnh thống lĩnh cánh quân còn lại tiến theo đường Vân Nam. Mặc dù huy động một lực lượng lớn, nhưng cuộc động binh lần này không khiến Minh Tuyên Tông thay đổi ý định dừng cai trị trực tiếp An Nam, mà muốn biến vùng đất này thành một nước phiên thuộc. Kế hoạch của ông là trước hết đàn áp Lê Lợi, sau đó tìm lập con cháu họ Trần làm vua, để An Nam một lần nữa làm chư hầu Đại Minh.

Sau khi được tin quân cứu viện đối phương sắp sang, nhiều tướng lĩnh hối thúc Lê Lợi công thành Đông Quan gấp. Cho rằng "đánh thành là hạ sách", cộng thêm nguy cơ bị đối phương giáp công từ nhiều hướng, Lê Lợi chủ trương thực hiện chiến lược "vây thành diệt viện". Nhận thấy lực lượng Lam Sơn quá mỏng để vừa có thể vây thành, vừa tổ chức đón đánh cả hai cánh quân cứu viện, Lê Lợi quyết định tập trung lực lượng để tiêu diệt từng cánh quân riêng lẻ. Nhằm ngăn chặn mọi khả năng liên lạc giữa các cánh quân cứu viện với các thành trì còn lại của quân Minh, Lê Lợi đã hạ lệnh tấn công tất cả các thành trên dọc tuyến đường từ Trung Quốc tới Đông Quan. Bùi Quốc Hưng được lệnh vây đánh thành Điêu Diêu[xviii] và Thị Cầu, Lê Sát và Lê Thụ vây đánh thành Khâu Ôn, Trịnh Khả và Đỗ Khuyển vây đánh thành Tam Giang. Ngoài ra, để tăng cường áp lực, Lê Lợi hạ lệnh vây chặt 4 cửa thành Đông Quan. Lê Lợi – bất chấp thỏa thuận trước đó – đón đánh quân Minh từ các thành phía Nam rút về, do lo ngại lực lượng này sẽ bổ sung sức mạnh đáng kể cho quân Minh ở Đông Quan.

Ngày 9 tháng 2 năm 1427, Lê Sát và Lê Thụ phá thành Khâu Ôn.[xix] Tin tức tòa thành này thất thủ là một đòn tâm lý khiến sĩ khí quân Minh trấn giữ các thành trên đường đến Đông Quan suy giảm trầm trọng. Nhân cơ hội này, Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng tướng trấn thủ thành Điêu Diêu là Trương Lân và Trần Vân vốn đang bị Bùi Quốc Hưng vây đánh. Trước lời lẽ thuyết phục của Nguyễn Trãi, hai người này đã đem quân ra hàng. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi nhiều lần gửi thư chiêu hàng Vương Thông yêu cầu trả tù binh. Vương Thông bên ngoài tuy chấp thuận yêu sách của Lê Lợi, đồng ý sẽ rút quân chủ lực khỏi Đông Quan, nhưng thực chất là đang cố gắng kéo dài thời gian để chờ viện binh sang.

Ngày 4 tháng 3 năm 1427, nhằm tìm kiếm một chiến thắng để vực dậy tinh thần ba quân, Phương Chính xuất kỳ bất ý đem quân đánh úp doanh trại của Lý Triện ở Quả Động. Bị tấn công bất ngờ, quân Lam Sơn không kịp trở tay, Đỗ Bí bị bắt, Lý Triện tử trận. Tuy nhiên, thắng lợi này là không đủ để củng cố tinh thần quân Minh. Ngay sau sự việc ở bên ngoài thành Đông Quan, quan quân giữ thành Thị Cầu đã buộc phải mở cửa đầu hàng sau một thời gian bị Nguyễn Chích vây đánh rất ngặt. Nhằm cứu vãn tình thế, ngày 16 tháng 3, Vương Thông mở một cuộc tập kích khác ở bãi Sa Đôi nhưng bị đẩy lui. Ngày 2 tháng 4, Nguyễn Trãi thành công dụ hàng Lưu Thanh, tướng giữ thành Tam Giang – tòa thành cuối cùng trên tuyến đường từ Vân Nam sang Đông Quan. Để tránh tình hình trở nên xấu thêm, ngày 4 tháng 4, Vương Thông đích thân chỉ huy một đội quân tinh nhuệ tập kích doanh trại do Lê Nguyễn trấn thủ ở Tây Phù Liệt.[xx] Các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí vội vàng mang 500 quân thiết đột tới tiếp viện. Quân Lam Sơn phối hợp đánh từ hai mặt, thành công đẩy lui quân Minh. Tuy nhiên, cả Đinh Lễ lẫn Nguyễn Xí đều bị quân Minh bắt sống khi hai người này đuổi theo truy kích. Đinh Lễ bị xử tử còn Nguyễn Xí may mắn vượt ngục trốn ra ngoài thành công.

Chủ trương chặn đánh viện binh nhà Minh ở biên giới, Lê Lợi bố trí Trần Lựu, Lê Bôi đóng quân ở ải Pha Lũy để chặn đạo quân từ phía Quảng Tây tiến sang; Trần Ban lên giữ ải Lê Hoa để ngăn chặn đạo quân từ phía Vân Nam. Lúc bấy giờ, tất cả thành trì trên đường từ Đông Quan lên Lê Hoa và Pha Lũy đều đã rơi vào tay quân Lam Sơn, duy tại thành Xương Giang, quân Minh dưới sự chỉ huy của Lý Nhiệm vẫn chống cự quyết liệt. Tháng 7 năm 1427, do Liễu Thăng, Mộc Thạnh sau nhiều tháng vẫn chưa thể xuất phát do chưa tập hợp đầy đủ quân số, triều đình nhà Minh vội gấp gáp sai tổng binh Quảng Tây là Cố Hưng Tổ đem quân địa phương sang Giao Chỉ trước, nhưng người này vừa đến ải Pha Lũy thì bị Trần Lựu và Lê Bôi đánh bại.

Sau khi nhận được tin tức về Cố Hưng Tổ, Liễu Thăng và Mộc Thạnh tức tốc xuất phát. Quyết tâm phải hạ thành Xương Giang trước khi viện binh nhà Minh tới Giao Chỉ, Trần Nguyên Hãn và Lê Sát tiến hành công thành ngay lập tức. Sở hữu lực lượng đông đảo trong tay, bộ chỉ huy Lam Sơn tổ chức tấn công từ bốn phía, đồng thời sử dụng chiến cụ, hỏa pháo và đào thêm địa đạo. Tuy nhiên, tất cả các đợt tấn công đều bị quân giữ thành, dưới sự chỉ huy của Lý Nhiệm, đẩy lùi. Tuy nhiên, sau gần một năm bị vây hãm, quân Minh chịu tổn thất lớn về mặt nhân lực, lương thực không còn đủ dùng và dần mất đi khả năng chống cự. Ngày 28 tháng 9 năm 1427, thành Xương Giang thất thủ sau nhiều ngày đêm bị tấn công dồn dập. Lý Nhiệm và nhiều tướng lĩnh đồng loạt tự sát, hàng nghìn quân dân không hàng đều bị quân Lam Sơn đồ sát.

Sau khi loại bỏ chướng ngại cuối cùng là thành Xương Giang, nghĩa quân bắt đầu công tác chuẩn bị cho trận đánh sắp tới với viện binh nhà Minh. Để đón đánh quân chủ lực của Liễu Thăng, Lê Lợi bố trí Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mai phục ở ải Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Nguyễn Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân còn lại, Lê Lợi biết được Mộc Thạnh là người thận trọng, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho các tướng giữ ải Lê Hoa cố thủ không đánh. Khi quân tiên phong do đích thân Liễu Thăng chỉ huy đến ải Pha Lũy, Trần Lựu liên tục giả vờ thua chạy về ải Lưu, rồi lại chạy về ải Chi Lăng. Cho rằng quân Lam Sơn yếu ớt, Liễu Thăng cùng hơn 100 kỵ binh tách khỏi đại quân đuổi theo. Khi đến bên sườn núi Mã Yên, Liễu Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra giết chết.

Đại quân nhà Minh do Hoàng Phúc, Thôi Tụ chỉ huy cố gắng rút về thành Xương Giang nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, tiêu diệt toàn bộ quân Minh ở Xương Giang. Thôi Tụ bị giết, Hoàng Phúc đầu hàng nên được tha. Lúc bấy giờ, Mộc Thạnh đóng quân ở vùng ải Lê Hoa đến Lãnh Thủy câu, nghe tin Liễu Thăng thua nên rút lui, nhưng đã bị Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo đánh bại.

Với chiến thắng trước hai đạo viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh, sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã hoàn toàn lấn át quân Minh. Trong bối cảnh đó, Vương Thông đồng ý thương lượng để chấm dứt chiến tranh. Để làm tin, Lê Lợi cử con trưởng là Lê Tư Tề cùng tướng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan; phía Vương Thông cũng cử Sơn Thọ, Mã Kỳ sang quân doanh Lam Sơn ở Bồ Đề[xxi] làm con tin. Ngày 16 tháng 12 năm 1427, Vương Thông cũng nhiều tướng lĩnh đã cùng các chỉ huy của nghĩa quân Lam Sơn tổ chức hội thề tại một địa điểm ở phía Nam thành Đông Quan. Hai bên đàm phán ấn định ngày rút lui của quân Minh cũng như việc nghĩa quân Lam Sơn sẽ dâng biểu cầu phong cho Trần Cảo.

...Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú-phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ-ngơi. Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang-san từ đây mở mặt, xã-tắc từ đây vững nền. Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu...

Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi, bản dịch của Trần Trọng Kim (1920)

Các điều khoản đã được thỏa thuận được hai bên chấp hành nghiêm chỉnh. Ngày 17 tháng 12 năm 1427, đoàn sứ giả Lam Sơn lên đường sang Bắc Kinh, trả các tín vật của các tướng lĩnh, quan lại bị tịch thu, đồng thời dâng biểu cầu phong cũng như danh sách kê khai quan quân, người ngựa của nhà Minh đang bị giữ ở Giao Chỉ sẽ được trả lại. Trước tình hình không thể cứu vãn, Minh Tuyên Tông – người vốn đang có xu hướng ngả về phía phe chủ hòa do Dương Sĩ Kỳ dẫn đầu – chấp thuận bãi binh. Tuy hiểu rõ việc Trần Cảo chỉ là vua bù nhìn, vua Minh vẫn xuống chiếu sắc phong Cảo làm "An Nam Quốc vương". Tuy nhiên, lệnh bãi binh chưa kịp đến tay Vương Thông thì toàn bộ binh mã nhà Minh ở Giao Chỉ đã rút về nước.

Sau hội thề, Lê Lợi một mặt tập hợp những người Minh đã ra hàng hoặc bị bắt từ trước để tiến hành trao trả, mặt khác tu sửa cầu đường, chuẩn bị lương thực, thuyền, ngựa để cung cấp cho quân Minh về nước. Khi thấy quân Minh được phép rút về nước an toàn, một bộ phận tướng sĩ và người dân đã xin Lê Lợi giết hết để trả nợ máu. Tuy nhiên, vì muốn giữ hòa khí hai nước, Lê Lợi đã từ chối những đề nghị trên. Trước ngày khởi hành, toàn bộ tướng lĩnh, quan lại, binh mã nhà Minh đều tới Bồ Đề bái tạ Lê Lợi và được tiếp đãi rất trọng hậu. Ngày 29 tháng 12 năm 1427, quân Minh chính thức lên đường về nước. Ngày 3 tháng 1 năm 1428, Vương Thông cũng lên đường. Tổng số binh lính và quan lại – không bao gồm những người ở lại – được Lê Lợi thả về nước theo thống kê của nhà Minh là 84.640 người. Có ý kiến cho rằng, tổng số người Minh được cho về nước, cả quân và dân, có thể lên tới 300.000 người. Sử gia Phạm Văn Sơn bác bỏ luận điểm này, cho rằng nó "hơi quá sự thật", và đưa ra con số ước tính là trên dưới 200.000 người.

Trong bối cảnh nhà Minh vẫn duy trì ảnh hưởng mạnh mẽ trong khu vực, Lê Lợi đã phải đối mặt với bài toán cân bằng quyền lực để bảo đảm tính chính danh và giữ gìn hòa bình lâu dài với triều đình phương Bắc. Để giảm căng thẳng trong giai đoạn đầu, Lê Lợi tiếp tục sử dụng Trần Cảo – với thân phận con cháu họ Trần – làm quân cờ chính trị nhằm "làm tin" với nhà Minh. Mặc dù Trần Cảo được nhà Minh phong là "An Nam quốc vương", nhưng ông không nhận được sự ủng hộ từ đại bộ phận nghĩa quân Lam Sơn và không có vai trò thực sự trong chính quyền. Khi quân Minh rút khỏi Đại Việt, Trần Cảo mất đi giá trị lợi dụng và qua đời đột ngột vào ngày tháng 2 năm 1428. Theo nhiều tài liệu sơ cấp, Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma nhưng không thoát, bị bắt mang về ép uống thuốc độc chết. Tuy nhiên, một số sử gia đặt nghi vấn về sự việc này, cho rằng cái chết của Cảo là do Lê Lợi đứng sau chỉ đạo.

Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, khôi phục quốc hiệu là Đại Việt, thành lập nhà Hậu Lê. Do bối cảnh chính trị phức tạp và để củng cố quyền lực, ông đã ủy thác cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để công bố thắng lợi và thông báo cho toàn thể thiên hạ về sự độc lập của Đại Việt, đồng thời khẳng định chủ quyền và chính danh của triều đại mới thành lập. Về mặt đối ngoại, Lê Lợi sai sứ báo với nhà Minh rằng Trần Cảo bị bệnh mà chết, do đó bản thân ông kế vị danh chính ngôn thuận. Ban đầu, triều đình Minh không thừa nhận ngôi vị của Lê Lợi, yêu cầu phải tìm con cháu họ Trần khác. Phải sau nhiều lần khẳng định họ Trần đã tuyệt tự, vào năm 1431, Minh Tuyên Tông chấp nhận phong Lê Lợi quyền tạm coi việc trị nước ở An Nam, gọi là "Quyền thự An Nam quốc sự".[f] Mãi đến năm 1435, ông mới chính thức công nhận Lê Lợi làm "An Nam Quốc vương".

Sự công nhận từ nhà Minh đã mở ra một giai đoạn ổn định trong quan hệ bang giao giữa Đại Việt và Trung Quốc. Nhằm tái lập cục diện như thời Trần, nhà Minh chấp nhận thi hành chính sách hòa giải với nhà Hậu Lê và thiết lập một mối quan hệ triều cống "hậu vãng bạc lai"[g] mang tính hình thức và coi trọng lễ nghi hơn lợi ích thực tế. Đại Việt tuy tham gia vào hệ thống triều cống của Trung Quốc với vai trò chư hầu, nhưng vẫn duy trì được sự độc lập trên mọi phương diện khác. Triều đình Hậu Lê thực hiện chính sách triều cống định kỳ với nhà Minh, tuân thủ các nghi lễ ngoại giao tương tự thời kỳ nhà Trần. Phía Đại Việt cũng thường xuyên cử sứ giả sang Trung Quốc với các mục đích như tạ ơn, chúc mừng, thăm hỏi. Mỗi vị vua nhà Lê khi mới lên ngôi đều phải cầu phong vua Minh nhằm hợp thức hoá sự lên nắm quyền của mình. Đáp lại, vua Minh sẽ cử người sang sách phong và ban áo, gấm vóc cho vua Lê. Tuy nhiên, trên thực tế, các vua Lê vẫn tiếp tục thi hành chính sách "Ngoại Vương Nội Đế" như các triều Lý, Trần: xưng "vương" khi ngoại giao với triều đình phương Bắc, ở trong nước và với các tiểu quốc lân cận thì xưng "đế". Mối quan hệ triều cống này được duy trì tốt đẹp xuyên suốt thời kỳ Lê sơ. Chỉ khi Mạc Đăng Dung phế truất Lê Cung Hoàng, lập nên nhà Mạc, quan hệ song phương bắt đầu xảy ra biến động, song chiến tranh giữa hai nước đã không bao giờ xảy ra.

Cuộc xâm lược của nhà Minh không đơn thuần là một cuộc xung đột quân sự mà còn đi kèm với kế hoạch thuộc địa hóa toàn diện, bao gồm việc thiết lập hệ thống giáo dục theo mô hình Trung Hoa, tổ chức các kỳ thi chữ Hán và di dân từ phương Bắc để thay đổi kết cấu dân số. Tuy nhiên, khởi nghĩa Lam Sơn đã thay đổi hoàn toàn tình thế. Được khởi xướng từ vùng núi ít bị ảnh hưởng văn hóa Hán, phong trào này không chỉ kháng Minh mà còn chống lại tầng lớp thân Minh ở miền xuôi, đặc biệt là tầng lớp tinh hoa đã bị Hán hóa sâu sắc. Sau chiến thắng, triều đình nhà Lê dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã ban hành các chính sách nhằm xây dựng một nền tảng văn hóa chính trị độc lập.

Nguyễn Trãi, trong Bình Ngô đại cáo, đã tuyên bố Đại Việt là "văn hiến chi bang",[h] một thực thể văn hóa độc lập đã tồn tại từ trước, có lãnh thổ rõ ràng, với "núi sông bờ cõi" riêng. Thông điệp này không chỉ bác bỏ tính chính danh của nhà Minh đối với lãnh thổ Đại Việt, mà còn là một tuyên bố thách thức tư duy của Trung Hoa, khẳng định rằng triều Lê là một "thiên hạ" độc lập, chính danh, ngang hàng với triều đình phương Bắc, không bị lệ thuộc hoặc phục tùng. Theo Kathlene Baldanza, thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn không chỉ chấm dứt mối đe dọa thuộc địa hóa từ nhà Minh mà còn tạo nên một thế giới quan mới cho người Việt. Từ góc nhìn của người Việt, Đại Việt là "Nam Quốc," nơi hoàng đế phương Nam cai trị và có thiên mệnh riêng biệt, đồng thời chấp nhận sự tồn tại song song của cả hoàng đế phương Bắc lẫn hoàng đế phương Nam. Ngược lại, nhà Minh lại không công nhận quyền lực độc lập của hoàng đế Đại Việt, xem Trung Quốc là trung tâm duy nhất của "thiên hạ" và cho rằng "[một] bầu trời không thể có hai mặt trời". Sự khác biệt trong cách nhìn nhận này đã tạo nên một mô hình quan hệ Việt – Trung mang tính độc lập và tự chủ cho Việt Nam. Dù chấp nhận quy tắc ngoại giao triều cống, người Việt vẫn khẳng định bản sắc văn hóa và quyền lực riêng, coi mình là người đồng thừa hưởng văn hóa Hoa Hạ cổ nhưng độc lập về mặt chính trị.

Nhà Minh, với tham vọng duy trì quyền bá chủ trong khu vực, còn áp dụng các chính sách thị uy quân sự và thương mại, điển hình là các cuộc thám hiểm hàng hải nhằm mở rộng ảnh hưởng, tương tự những chiến dịch thuộc địa của đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau này. Việc không đạt được mục tiêu ở Việt Nam khiến nhà Minh phải tái cân nhắc chiến lược và giảm thiểu tham vọng bành trướng, trong khi những cải tiến về quân sự và tổ chức hành chính lại ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, giúp xây dựng một nhà nước tập quyền và khởi đầu quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Trong lĩnh vực quân sự, nhà Minh đã đưa vào Đại Việt các kỹ thuật và vũ khí tiên tiến, đặc biệt là hỏa khí. Vào thế kỷ 15, Đại Việt áp dụng những tiến bộ này để giành ưu thế trước Champa, kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài nhiều thế kỷ giữa hai nước. Đại Việt cũng tiếp thu các quy chuẩn văn hóa và hành chính của nhà Minh. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến cách tổ chức bộ máy nhà nước và đời sống văn hóa sau khi giành lại độc lập. Hệ thống hành chính, mô hình thi cử và một số khía cạnh văn hóa, phong tục của Đại Việt sau này đều phản ánh những thay đổi từ thời kỳ dưới quyền cai trị của nhà Minh, tạo nên một nền tảng mới cho triều đại Lê sơ phát triển. Mặc dù có ý kiến cho rằng thất bại của nhà Minh tại Việt Nam đánh dấu "khởi đầu cho sự suy tàn của vị thế tối thượng của Trung Quốc", thực tế cho thấy triều Minh vẫn đủ sức đẩy lùi cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Triều Tiên hơn 150 năm sau đó càng chứng minh sức sống bền bỉ của cả đế quốc Trung Hoa lẫn hệ thống triều cống của nó.

Liên kết đến các bài viết liên quan

dẫn người Hồi ở Cam Túc khởi nghĩa

Chú giải:Màu xanh lá chỉ những sự kiện có liên quan đên các nước phương Tây